"Nước là nhiên liệu của tương lai" - Đây là lời kết luận của rất nhiều chuyên gia phân tích về ngành năng lượng gần đây. Khi được xử lý theo kỹ thuật điện phân thế hệ mới, nhiên liệu nước cho phép chúng ta tiến hành 1 loại phản ứng hạt nhân an toàn và không gây phóng xạ gọi là hợp hạch lạnh hay LENR. Trong phản ứng đó, một lượng lớn Năng lượng Điểm Không được trích xuất từ chân không lượng tử - đủ năng lượng để đẩy piston trong động cơ đốt trong. Sau khi nhà phát minh Stanley Meyer bị ám sát năm 1998 vì ông đã chế tạo thành công hệ thống nhiên liệu nước cho xe hơi, nhiều người đã nỗ lực để sao bản và cải tiến mô hình của Meyer. Trong bản thuyết trình này, Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam xin trình bày các nguyên lý căn bản để thiết kế và chế tạo hệ thống nhiên liệu nước cho ô tô, xe máy, hay tàu thuyền. Chúng ta cũng đề cập đến 1 số ứng dụng khác của công nghệ nhiên liệu nước, như máy nước nóng và máy xử lý nước uống.
1. Năng lượng Mới cho một
nước Việt Nam siêu hiện đại
Phần 3: Khoa học Năng lượng Mới
Sủi bọt nước (Water Cavitation)
6/2014 Vietnam New Energy Group
2. Để thảo luận và đặt câu hỏi
về bài thuyết trình này, xin mời bạn
ghé thăm website và diễn đàn của
Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam:
www.nangluongmoisaigon.org
3. Hoặc lên trang Facebook của
“Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam”
4. Bây giờ chúng ta
đã sẵn sang tìm
hiểu về một lĩnh
vực hết sức thú vị
trong nền Khoa
học Năng lượng
Mới.
Đây là chủ đề thứ
10 trong khóa đào
tạo chúng ta
5. Để xem 9 chủ đề trước đây,
xin mời bạn đến trang web
http://www.nangluongmoisaigon.org/khoa-
h7885c-n259ng-l4327907ng-m7899i.html
9 chủ đề khoa học NLM được đề cập
trước đây trong khóa đào tạo gồm:
Lý thuyết hệ đa-vũ-trụ 11 chiều – Hạ lượng tử
động lực học – Bọt lượng tử - Điện-động lực
học lượng tử - Hiệu ứng Casimir – Điện-trọng-
lực học - Điện-động học kiểu Tesla -Khái niệm
năng lượng bức xạ của Tesla – Hợp hạch lạnh
6. Bạn có muốn sống trong một thế giới
không bao giờ phải đổ xăng nữa?
7. Hãy tưởng tượng rằng bạn có thể chạy
xe máy hay ô tô của mình bao xa
tùy thích và đối với mỗi cây số bạn đi,
bạn chỉ cần đổ một milli-lít
NƯỚC
8. Các chiếc xe máy, ô tô, và xe buýt chạy
bằng nước đang trở nên hiện thực!
9. Đây là công nghệ đến từ các phản ứng hạt
nhân năng lượng thấp (LENR) loại thứ 2
• Trong mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu một loại
phản ứng hạt nhân an toàn có thể tạo ra 2 chất
hữu ích trong các hệ thống nhiên liệu nước::
– Khí Hydroxy (cũng được gọi là HHO, Brown’s gas,
Ohmasa’s gas…)
– Các cụm tinh thể nước (Charged Water Clusters -
CWC)
• Các CWC (cụm tinh thể nước) trích xuất năng
lượng từ chân không lượng tử và chính năng
lượng này đóng vai trò then chốt trong việc đẩy
piston trong động cơ đốt trong
10. Trong phần 2 của Khóa đào
tạo (phần nói về lịch sử Năng
lượng Mới), chúng ta đã thấy
rằng sự phát triển công nghệ
này đã có những trang sử
đẫm máu. Năm 1998, nhà
phát minh Stanley Meyer bị
ám sát vì một số tập đoàn
dầu khí không muốn người
dân chạy xe bằng nhiên liệu
nước
11. Đây là một chiếc xe chạy bằng nhiên liệu nước
của Stanley hồi năm 1986:
Nếu video trên không mở tự động, xin mời bạn xem tại
http://youtu.be/CcNFgDuEYUg
12. Dù Stanley bị ám sát, nhưng các chiếc xe chạy bằng
nước là ước mơ chung của rất nhiều nhà sáng chế
trên thế giới. Công ty Genepax ở Nhật là một công
ty đã lặp lại thành công công nghệ của Stanley.
13. Xem thêm về công nghệ của Genepax
tại http://youtu.be/CpSbadhnD1I và
http://youtu.be/Db1o48QyRJM
14. Có lẽ cách đây khoảng 3 năm bạn đã
nhìn thấy xe của Genepax trên CNN:
15. Dave Lawton và nhiều người khác cũng
đã sao bản bộ nhiên liệu nước của
Stanley với những cải tiến mới
16. Dennis Klein cũng đã chế tạo một
pin nhiên liệu nước nổi tiếng:
Nếu video trên không mở tự động, xin mời bạn xem tại
http://youtu.be/XCmFI8z2d5w
17. Tôi muốn chạy xe máy của mình bằng
nhiên liệu nước!
Làm sao tôi có thể làm được điều đó?
18. Đây là bản mẫu thiết bị nhiên liệu
nước của Stanley Meyer
19. Hệ thống nhiên liệu
nước của Stanley dựa
vào 1 loại điện phân
thế hệ mới.
Xem nghiên cứu của
GS.Ts Philipp Kanarev
để hiểu thêm về kỹ
thuật điện phân này:
http://www.nangluongmoisaigon.org/2
72i7879n-phacircn-plasma-dung-
d7883ch-n4327899c.html
http://www.nangluongmoisaigon.org/2
72i7879n-phacircn-n4327899c-
kanarev.html
21. Phải chăng “ai đó” đang muốn chúng ta biết
cách chế tạo các hệ thông nhiên liệu nước?
22. Bộ nhiên liệu nước của Stanley đã gồm
3 “nhiên liệu” chính:
1) Nước bình
thường
2) Không khí ion
hóa
3) Argon
23. Một số mô hình nhiên liệu nước
cũng dùng thêm 1 chất xúc tác như
muối nở (baking soda - NaHCO3)
24. Bộ nhiên liệu nước của Stanley đã kết
hợp năng lượng từ HHO với
Năng lượng Điểm Không để chạy xe
• HHO gồm khí H2 và
O2 với tỷ lệ 2:1
• Nó giải phóng 241.8
kJ năng lượng đối
với mỗi mol H2
được đốt cháy
25. Wikipedia và một số nguồn tin đại
chúng gọi HHO là “oxyhydrogen”
• Theo cách họ định nghĩa oxyhydrogen, nó là
“một sự pha trộn hợp thức của Hydro lưỡng
nguyên tử và Oxy lưỡng nguyên tử” (a
stoichiometric mixture of diatomic hydrogen
and oxygen)
• TUY NHIÊN, các nhà khoa học Năng lượng Mới
không đồng ý với cách định nghĩa trên
26. Theo các nhà khoa học Năng lượng Mới,
HHO có nhiều loại và nhiều mức chất lượng
• Trong phòng thí nghiệm, các loại HHO sẽ tạo
các kết quả thử nghiệm khác nhau
• Chất lượng HHO phụ thuộc vào mức sự gắn
kết lượng tử (quantum coherence) nó đạt
được
27. Sự phân tích hóa học khí HHO đã cho
thấy rằng HHO bao gồm:
• Nước được cấu trúc lại ở cấp độ phân tử bởi xung
điện (Electrically Expanded Water) – đây là yếu tố
mấu chốt đối với giá trị của HHO như một nhiên
liệu
• Khí H2
• Khí O2
• Hơi nước
• H
• O
28. Trong bình điện phân HHO, chúng ta quan sát
3 loại bong bóng khác nhau.
Các bong bóng lớn nhất là CWC – tức là nước được cấu
trúc lại thành các “đại phân tử hình học” hay
“cụm tinh thể” nước
Ảnh minh họa:
Ts. Moray King
29. Những yếu tố nào góp phần quyết định khả năng của 1
hệ thống nước để đạt được sự gắn kết lượng tử?
Nói cách khác, yếu tố nào quyết đinh
mức chất lượng của nhiên liệu HHO?
• Mô hình hệ thống điện phân
• Mô hình bộ cung cấp điện
• Điều kiện vận hành hệ thống điện phân
• Về 3 yếu tố trên, hãy xem bài viết của John Loken’s tại
http://pesn.com/2014/05/06/9602484_Not-all-Browns-Gas_created-
equal/
30. “Nước được cấu trúc lại bởi điện lực”
(EEW) là gì?
• Nó là một “trạng thái thứ 4 của nước” – một trạng thái
nước đã hấp thụ một lượng lớn năng lượng chân
không hay ZPE (Năng lượng Điểm Không)
• Trong trạng thái này, nước có thể được đốt và nó sẽ
không cô đọng lại nếu nhiệt độ được hạ thấp xuống
• EEW không phải là kết quả của việc pha trộn hợp thức
H2 và O2 trong một quá trình điện phân
• EEW chính là yếu tố cho phép một hệ thống nhiên liệu
nước vượt hiệu suất (COP>1)
*Về trạng thái thứ 4 của nước, xem bài viết của Gerald Pollack tại
http://www.nangluongmoisaigon.org/tr7841ng-thaacutei-
th7913-4-c7911a-n4327899c.html
31. Có lẽ bạn đã quen biết 1 loại HHO được sử dụng
trong các bộ hàn xì thế hệ mới
32. Xung điện nhanh với điện áp cao
khiến cho các liên kết liên nguyên tử
trong phân tử nước tan rã, và
quá trình này tạo ra khí HHO
33. Tạo dòng xung điện DC là một
phương pháp phổ biến để tạo HHO
có lượng EEW cao
• Tần số và dạng sóng xung điện rất quan trọng
cho việc tối ưu hóa lượng HHO và tỷ lệ EEW
được sản xuất ra
34. Quá trình sản xuất HHO được
trình diễn trong video dưới đây:
Nếu video này không mở tự động, xin mời bạn xem tại
http://www.youtube.com/watch?v=I78OURfCM7g
35. Chúng ta đưa khí HHO này vào đầu
vào của động cơ đốt trong để nó
không cần đốt nhiều xăng như trước
• Nếu hệ thống nhiên liệu nước của chúng ta
sản xuất được đủ HHO chất lượng (tỷ lệ EEW)
cao, lượng xăng phải đốt sẽ bằng 0
• Về thực tế, phần lớn các hệ thống nhiên liệu
nước hiện nay tạo khoảng 7 lít HHO/phút
• Với mức hiệu suất này, chúng ta phải kết hợp
nhiên liệu nước với nhiên liệu xăng
36. Đây là một động cơ ô tô đang chạy
100% bằng nhiên liệu nước
Nếu video trên không mở tự động, xin mời bạn xem tại
http://www.youtube.com/watch?v=_ORKmkf8Wbc
37. Từ trước đến giờ, các nhà sáng chế HHO đã
thấy rằng rất khó để chạy 1 động cơ lớn
với tốc độ cao chỉ bằng HHO không
• Nếu, ví dụ, bạn có một chiếc ô tô chạy 100%
bằng HHO nhưng tốc độ tối đa của nó là 30
km/giờ thì nó sẽ không thực tiễn mấy
38. Phần lớn các hệ thống nhiên liệu nước
hiện nay chỉ sản xuất từ 1 đến 7 lít
HHO (chứa EEW) mỗi phút
• Nếu ta có thể tăng mức hiệu suất này lên 60
lít/phút, chúng ta có thể chạy ô tô rất khỏe với
điều kiện giao thông thông thường
• Vì các nhà sáng chế HHO chưa đạt được mức
hiệu suất này, thường họ áp dụng HHO trong
những hệ thống kết hợp (hybrid) nhiên liệu
nước với nhiên liệu xăng
39. Để tăng sức mạnh của hệ thống nhiên liệu
nước của chúng ta, mình phải tối ưu hóa
tỷ lệ EEW trong khí HHO ở đầu ra
• Trong EEW này có rất nhiều Năng lượng Điểm Không và
đây là điều mấu chốt trong các hệ thống nhiên liệu
nước
• Khi HHO bị đốt, “chất thải” duy nhất của nó là hơi nước
• Trong hệ thống của Stanley, ông đã dùng hơi nước này
để trích xuất thêm Năng lượng Điểm Không
• Ngoài hơi nước, ông cũng dùng them không khí ion
hóa và khí argon trong những bộ phận khác của hệ
thống
40. Điện áp cao (>25 kV) và tia la-de kích lên
các nhiên liệu nói trên và chuẩn bị chúng
để trích xuất Năng lượng Điểm Không
• Trong 2 chủ đề Điện-trọng-lực học
(Electrogravitics) và Hiệu ứng
Casimir trước đây, chúng ta đã tìm
hiểu cách dùng điện áp cao và tia
la-de để trích xuất Năng lượng
Điểm Không
• Xem video của Ts. Moray King tại
https://www.youtube.com/watch?
v=cwrR-2yZ82g để hiểu thêm về 2
kỹ thuật này
41. Stanley đã khám phá rằng, khi chúng ta tải xung
điện vào các phân tử nhiên liệu theo dạng sóng
“bậc cầu thang” dưới đây, chúng sẽ được cấu
trúc lại thành các cụm đại phân tử chứa một
lượng lớn Năng lượng Điểm Không
42. Trong hệ thống của Stanley, khi điện
áp tăng lên, biên độ giảm xuống
• Đây là 1 điểm chung
của nhiều hệ thống
Năng lượng Mới, ví
dụ như máy phát
điện QEG (bên trái)
43. Một khám phá nữa của Stanley là:
Nếu chúng ta dùng các cuộn dây bifilar và
bất đối xứng, điện áp sẽ được tăng lên
45. Stanley cũng tìm được một dạng sóng đặc
biệt có tác dụng làm phân tách phân tử của
một số loại nhiên liệu khác nhau
46. Tần số cộng hưởng của bộ nhiên liệu
nước là khoảng 5kHz
• Tần số cộng hưởng này đã cho phép điện áp
tăng đáng kể
47. Điện áp cao (khi nó được tải vào hệ thống trong
xung điện tần số cao – xin hãy nhớ nghiên cứu của
Valone và Jefimenko về tầm quan trọng của tần số
cao trong trường hợp này) khiến các phân tử
nước và phân tử khí kết hợp với nhau trong các
cụm đa-phân-tử có 1 cấu trúc hình học đặc biệt
48. Các cụm phân tử nước này hay được gọi là “cụm tinh thể
nước có điện tích cao” (CWCs hay Charged Water Clusters)
hay, trong trường hợp của nhiên liệu khí, “các cụm năng
lượng điện tích cao” (charged energetic clusters)
• Các nhà sáng chế nhiên liệu nước chưa đến sự
thống nhất về cách gọi các cụm tinh thể nhiên
liệu này, nên trong các tài liệu chuyên môn, chúng
hay được gọi bằng các tên khác nhau như:
“Electrically Expanded Water”
“Ohmasa Gas” và
“SG Gas”
49. Lúc đầu, các cụm này hình thành các sợi dây,
và sau đó các vòng, và về sau về cùng các
trật tự hình học như icosahedron
50. Về cơ bản, tại cấp độ nano, chúng ta
đang tạo nên các “quả bóng bucky”
bằng phân tử khí và nước
• Như chúng ta được biết, quả bóng bucky là rất cứng!
51. Để hiểu biết thêm về các quả bóng
bucky (buckeyballs), hãy xem
http://vi.wikipedia.org/wiki/Fullerene
52. Các nhà điện-hóa học đang gọi các
cụm tinh thể nước này là một
“trạng thái thứ 4 của nước”
53. Các cụm tinh thể nước được hấp dẫn một
cách tự nhiên đến các cực điện kim loại
trong bình điện phân
• Thử nghiệm đã cho thấy rằng cực điện bằng
Nhôm là khong phù hợp
• Thép không gỉ là 1 vật liệu từng được sử dụng
thành công
• Bạn cũng có thể thử dùng Paladi, Titan và một số
chất kim loại khác được nhắc đến trong chủ đề 9
(Hợp hạch lạnh) của khóa đào tạo này
• Trên các dực điện, các hiện tượng thú vị liên quan
đến sự trích xuất Năng lượng Điểm Không bắt
đầu xảy ra khi các bong bóng nước xuất hiện và bị
nổ
54. Bây giờ, chúng ta hãy xem giáo sự Ohmasa ở Nhật
đang dùng cụm tinh thể nước (CWC) để trích xuất
Năng lượng Điểm Không như thế nào
Nếu video trên không mở tự động, xin mời bạn xem tại
https://www.youtube.com/watch?v=zWdqU3liDQg
55. Một phần nào đó của lý do tại sao các cụm tinh thể
nước có thể hấp thụ nhiều Năng lượng Điểm Không
rồi giải phóng nó có lẽ được giải thích gần đây bởi
các nhà khoa học tại ĐH Georgia và ĐH Tel Aviv
• Họ thấy rằng, khi một tinh thể nước gồm >83
phân tử nước hình thành, nó sẽ hấp dẫn thêm 2
electron
• Khi một tinh thể nước gồm >105 phân tử nước
hình thành, các electron thừa này bắt đầu phân
tách một số phân tử nước thành H và O
56. Tìm hiểu thêm tại http://www.news.gatech.edu/2011/06/27/scientists-
discover-dielectron-charging-water-nano-droplets
57. David Wilcock và 1 số nhà khoa học khác đã
nêu ra rằng tần số đóng vai trò then chốt
trong việc hình thành các tinh thể nước
58. Động cơ Papp (thập niên 60) là 1 ví dụ lịch sử cho thấy
rằng, khi chúng ta kích lên trước các phân tử khí hiếm,
chúng ta có thể tạo ra các hiệu ứng năng lượng cao khi
vận hành hệ thống dùng khí hiếm này như 1 nhiên liệu
59. Để trích xuất Năng lượng Điểm Không từ các
cụm tinh thể nước, chúng ta phải tạo sủi
bong bóng nước (cavitate the water)
• Đây có nghĩa là, rung động nhiên liệu nước
của ta với tần số cao để tạo các bong bóng rất
nhỏ
60. Ai thường đi thuyền biết rằng hiện tượng sủi
bọt nước có thể làm hư các thiết bị bằng
kim loại sau một thời gian sử dụng dài
61. Dù sủi bong bóng nước là nỗi khổ của người
sở hữu tàu thuyền, nhưng trong trường hợp
nhiên liệu nước, chúng là bạn của chúng ta
62. Khi các bong bóng nước nhỏ này nổ,
chúng giải phóng rất nhiều năng lượng
63. Hãy chú ý rằng, khi bong bóng nước này (một bong
bóng nước đã được kích lên trước bằng xung điện
có điện áp cao và 1 dạng sóng đặc biệt) chuẩn bị nổ,
lấy hình xuyến và có một tia tác động ở giữa
64. Tia tác động này tạo ra 1 sóng xung
kích vì sức mạnh của nó là rất lớn
65. Tia tác động này có thể gia tốc tới mức Mach 4
(vận tốc âm thanh gấp 4 lần) và tạo áp suất
>300.000 psi (20.400 atm)
66. Vụ nổ này lớn đến mức nó giải phóng
Năng lượng Điểm Không
67. Ở cấp độ micro hay nano, vụ nổ này là giống
như vụ nổ quả bom Hyrdro (một loại vụ nổ
cũng giải phóng Năng lượng Điểm Không)
68. Năng lượng Điểm Không này hỗ trợ
việc đốt HHO để đẩy piston
trong động cơ đốt trong
69. Một số nhà sáng chế nhiên liệu nước khuyên
chúng ta thử đặt một cuộn Tesla ở phía dưới bình
điện phân và bắn các cụm tinh thể nước qua cái
tâm của cuộn này để giúp các cụm gia tốc và giải
phóng nhiều năng lượng hơn khi chúng nổ
70. Quả ra, Công ty Xogen (một công ty do em trai
Stanley Meyer sở hữu) đặt một cuộn Tesla ở
phía dưới bình điện phân của họ vì nó tạo nên
một trường điện từ thăng giáng tốt cho
sự gắn kết Năng lượng Điểm Không
71. Bằng cách áp dụng những tần số cộng hưởng khác
nhau, chúng ta có thể tạo nhiều trật tự hình học
khác nhau trong các nhóm bong bóng
http://www.lcmd.espci.fr/people/NicolasBremond/Cavitation.html
72. Các nhóm bong bóng có-một-trật-tự-hình-học
này giúp thu hút, gắn kết, và hấp dẫn Năng
lượng Điểm Không từ chân không lượng tử
73. Một cách để tạo các bong bóng nước
siêu nhỏ này là dùng siêu âm
• Mark LeClair (Cty
NanoSpire) đã khám
phá ra phương pháp
này
• Trong cái ông gọi là
“hiệu ứng LeClair”, các
phân tử nước hình
thành những sợi dây
và sau đó, các sợi dây
này hình thành các
hình xuyến vững chắc
74. Roger Stringham là 1 nhà khoa học NLM
cũng đã thành công trong việc dùng sóng
âm thanh để trích xuất năng lượng chân
không từ sủi bong bóng nước
75. Năm 1974, Yull Brown
khám phá rằng các
cụm tinh thể nước
chứa 1 lượng năng
lượng rất lớn và, khi
chúng nổ gần 1 tấm
kim loại, các nguyên tử
kim loại đó có thể trải
qua sự chuyển hóa
nguyên tố do các liên
kết giữa proton,
neutron và electron bị
phá vỡ
76. Về cơ bản, đây có thể là lý do tại sao chúng ta
chứng kiến sự chuyển hóa nguyen tố trong một
số ứng dụng Hợp hạch lạnh
(Xem chủ đề 9, Phần 3 trong khóa đào tạo này:
http://www.slideshare.net/SaigonNewEnergyGroup
/hp-hch-lnh-cold-fusion-phn-ng-ht-nhn-an-ton)
77.
78. Ngoài sóng âm thanh và siêu âm, có rất nhiều
cách khác để tạo sủi bong bóng nước trong 1 hệ
thống LENR (phản ứng hạt nhân năng lượng thấp)
• Chân không Venturi
• Thổi không khí qua các kẽ
hở nhỏ trong kim loại
• Tạo sự thăng giáng (dao
động) trong một điện
trường (đặc biệt 1 điện
trường có hình xuyến)
• Máy bơm nước tạo sủi
bọt nước từ lực xoáy
• Xung điện với tần số và
điện áp cao, và các dạng
sóng khác nhau
• Cọ xát bằng tĩnh điện
• Rung động cơ học
Hãy xem bài thuyết trình tuyệt vời của Ts. Moray King về
công nghệ NLĐK từ sủi bọt nước tại
http://youtu.be/pa2sjMN8sMc
79. Stanley Meyer đã dung 1 kỹ thuật thứ 3
để tăng công suất của hệ thống
nhiên liệu nước của mình.
Đó là “chiết xuất electron”
(electron extraction)
80. Stanley đã nhận ra rằng ánh sáng với
chiều dài bước sóng bằng 660 nm là
quan trọng trong sự quang hợp
81. Ánh sáng với chiều dài bước sóng 660
nm tương tác với các hạt electron
• Nó cho phép năng
lượng photon vào trong
mỗi hạt electron
• Khi điều này xảy ra, hạt
electron sẽ nhảy sang
một quỹ đạo xa hơn và
nó cũng sẽ tăng điện
tích (electron-vôn) của
mình
82. Sau nhiều năm nghiên
cứu và thử nghiệm,
Stanley thấy rằng khi
mạch chiết xuất
electron có sự cộng
hưởng với nhiều hình
thức năng lượng khác
nhau đang tác động lên
các nguyên tử H và O
cùng một lúc, việc chiết
xuất electron sẽ xảy ra
dễ dàng hơn mọi người
từng nghĩ trước đó
83. Khi chúng ta tiếp tục đẩy các hạt electron ra
những quỹ đạo xa hơn, về sau về cùng,
chúng sẽ thoát ra khỏi các hạt nhân của mình
• Khi các hạt electron ra đi, chúng sẽ để lại nhưng hạt
proton “cô đơn” và các proton cô đơn này sẽ thèm hấp
dẫn các electron mới
• Hệ thống nhiên liệu nước của Stanley đã ngăn cản
thành công sự kết hợp lại của các proton và electron
“cô đơn” bằng cách dùng 1 màng điện tích dương và
tạo lực xoáy có tốc độ rất cao trong bình phản ứng
• Sau khi sự kết hợp của các hạt proton và electron được
ngăn cản thành công, các hạt nhân Hydro sẽ tạo nên
những electron mới và, trong quá trình này, chúng sẽ
giải phóng rất nhiều năng lượng
84. Bằng cách này, sau khi các phân tử nước đã
được phân tách, hệ thống của Stanley đã
phân tách tiếp các nguyên tử H và O
85. Một trong những mẹo quan trọng để tạo một
hệ thống nhiên liệu nước thành công là:
Nước trong bình phản ứng phải rất hỗn loạn
(Càng hỗn loạn càng tốt)
• Chính vì thế, thổi
không khí qua 1 kẽ hở
có thể tăng công suất
của 1 hệ thống nhiên
liệu nước
• Để xem vài ví dụ, hãy
tìm hiểu các hệ thống
của Archie Blue và
Oliver/Valentin
86. Một mẹo nữa là: Làm xước các cực điện
• Mẹo này liên quan đến lý thuyết của Edmund Storms
rằng các chỗ bị nứt và bị trầy xước trên cực điện
chính là những “dây chuyền sản xuất” các phản ứng
lạ như chuyển hóa nguyên tố, hợp hạch lạnh, v.v.
87. Vừa rồi, chúng ta đã thấy những cách mà sủi bọt
nước có thể trích xuất năng lượng chân không trong
1 hệ thống nhiên liệu nước. Bây giờ, chúng ta hãy
quay lại chiếc xe xinh xắn của Stanley.
88. Stanley đã chế tạo 1 thiết bị có thể được cắm vào ổ
bu-gi của động cơ ô tô để sử dụng hệ thống nhiên
liệu nước trong các chiếc ô tô hiện đang lưu thông
89. Nếu như chúng ta có thể chế tạo 1
thiết bị tương tự cho xe máy thì sẽ
rất tuyệt vời, phải không ạ?
90. Những năm gần đây, nhiều nhà sáng chế
đã nỗ lực để cải tiến mô hình của Stanley
91. Khi nào chúng ta làm việc với Năng lượng
Điểm Không, thường có nhiều bước phải
thực hiện trong một thứ tự đặc biệt
• Đầu tiên, chúng ta kích lên sự hỗn hợp của
nước và khí hiếm
• Sau đó, chúng ta tạo sủi bọt nước (bong bóng
nước) trong dung dịch này
• Sau đó, chúng ta tạo các vụ nổ khi bong bóng
nước chạm vào 1 tấm kim loại
• Để tăng hiệu suất của hệ thống, chúng ta có
thể tạo 1 lực xoáy trong bình phản ứng
92. Các xoáy nước trong bình phản ứng
giúp gắn kết năng lượng
từ Trường Điểm Không
93. Khi bạn thiết kế các hệ thống nhiên liệu nước, hãy
lưu ý rằng có 1 số mô hình hình học có thể giúp
tạo và giữ gìn lực xoáy trong bình phản ứng
94. Một số nhà khoa học NLM còn tìm
cảm hứng trong những “vòng tròn bí ẩn”
95. Một phát hiện nữa là:
Khi chúng ta tạo sự tăng lên đột ngột của
số ion trong bình phản ứng, năng lượng
chân không sẽ được trích xuất nhiều hơn
• Một lý thuyết phổ biến trong lĩnh vực khoa
học NLM là sự tăng lên đột ngột của số ion sẽ
“bẻ cong” bọt lượng tử (nếu hiểu theo từ ngữ
của John Wheeler: xem chủ đề 3, Phần 3 trong
khóa đào tạo chúng ta) và như vậy, Năng
lượng Điểm Không có thể chảy dễ hơn từ phía
phi vật thể của vũ trụ sang phía vật thể.
96. Ken Shoulders đã bắn các plasmoids kích cỡ micro
từ một tụ điện rất nhọn để tạo các vụ nổ lớn –
đủ lớn để trích xuất năng lượng chân không
97. Các plasmoid micro này được tạo nên bằng
cách tải đột ngột xung điện với điện áp cao vào
các cụm phân tử khí đã được kích lên trước
98. Một số nhà thiên văn hiện tại đang
đưa ra giả thiết rằng Mặt trời của
chúng ta là 1 plasmoid
• Xem bài thuyết
trình của Bob
Johnson với tiêu
đề “Đánh giá lại
lý thuyết Mặt trời
điện”
(http://youtu.be/
JWpPetpI50U)
99. Chúng ta đã biết rằng
Mặt trời chứa và
phóng ra rất nhiều
năng lượng. Vì vậy,
sao chúng ta không
chế tạo 1 phiên bản
nhỏ của nó tại cấp độ
micro hay nano?
100. Shoulders gọi các plasmoid micro này – những
“mặt trời siêu nhỏ” – những “Vật thể chân
không kỳ lạ”(Exotic Vacuum Objects - EVOs)
• Mỗi EVO chứa khoảng 1011 electron và 106 ion
101. Giống các cụm tinh thể nước (CWCs), các EVO
thường hình thành các sợi dây và sau đó những
sợi dây này hình thành các cụm khi được
tác động bởi xung điện với điện áp cao
• Khi điều này xảy ra, dường như điện tích đang được
tải trực tiếp về từ chân không lượng tử
102. Shoulders cũng tìm được 1 phương pháp để tạo các
plasmoid có hình xuyến. Khi ông bắn những
plasmoid hình xuyến này vào bình phản ứng
nhiên liệu nước, ông thấy rằng lượng Năng lượng
Điểm Không được trích xuất cũng tăng lên
103. Về tầm quan trọng của hình xuyến trong
nền Khoa học Năng lượng Mới,
xin mời bạn xem phim
“Thrive” (Thịnh vượng) tại
http://youtu.be/_s67drBML4s
104. Các plasmoid hình xuyến này đã được thử nghiệm
thành công trong cả bình phản ứng khí lẫn
bình phản ứng dung dịch nước
• Các plasmoid hình xuyến chứa rất
nhiều năng lượng nhờ khả năng của
chúng để gắn kết Năng lượng Điểm
Không tại cấp độ nano
• Khi chúng ta tạo 1 lực xoáy trong
bình phản ứng, các plamsoid hình
xuyến này gắn kết thêm Năng lượng
Điểm Không nữa.
• Mark LeClair (Cty Nanospire) là 1
người đang đi tiên phong trong lĩnh
vực này
105. Khi các plasmoid hình xuyến và các EVO nổ gần
1 vật thể cứng, vụ nổ này giải phóng rất nhiều
năng lượng, trong đó có Năng lượng Điểm Không
• Một phần của “hiệu ứng LeClair” là chúng ta
dùng xung điện ở điện cáp cao để biến các
cụm tinh thể nước bền vững (những “quả
bóng bucky” bằng nước) thành plasmoid.
• Sau đó, chúng ta kích các plasmoid lên bằng
tia la-de cho đến khi chúng nổ
• Các vụ nổ này rất lớn, đến mức đồ gốm-sứ đã
bị thủng khi plasmoid nổ cạnh chúng
106. Trong hiệu ứng LeClair, chúng ta chứng kiến
áp suất hơn 100.000 psi (6800 atm) khi
tia tác động sụp bên cạnh 1 tấm kim loại
• Áp suất khổng lồ này là nhờ việc nén vô
hướng đột ngột xảy ra khi bong bóng bị sụp,
khiến Năng lượng Điểm Không được gắn kết
rồi giải phóng
107. Hãy xem các nghiên cứu của Peter Graneau
và Gary Johnson để hiểu biết thêm về cách
tạo và khai thác các plasmoid bằng xung nước
• See Johnson, “Electrically Induced Explosion in Water”, http://open-source-
energy.org/files/rwg42985/russ/Patents/Electrically_Induced_Explosions_in_Wate
r.pdf
108. Khi các plasmoid được bắn liên tục,
lượng năng lượng được giải phóng
tăng đáng kể
109. Khi bạn nhìn thấy hình ảnh này – vụ nổ một plasmoid
nhỏ xíu – bạn có liên tưởng đến gì nữa không?
110.
111. Trong 2 hình ảnh này, bạn có thể thấy rằng
có 1 mối liên hệ chặt chẽ giữa các phản ứng
nhiệt hạch và phản ứng hợp hạch lạnh.
Nhưng trong khi nhiệt hạch dẫn đến
phóng xạ nguy hiểm, trong trường hợp của
hợp hạch lạnh (hãy nhớ rằng các hệ thống
vượt hiệu suất từ sủi bọt nước chỉ là 1 hình
thức hợp hạch lạnh), không có
phóng xạ nguy hiểm.
112. Nhiều dự án nhiên
liệu nước hiện nay
đang nỗ lực để tạo
một hệ thống có
thể dẩy các piston
trong 1 động cơ
đốt trong
113. Nhưng 1 số nhà khoa học NLM nghĩ rằng
plasmoid có thể cung cấp đủ năng lượng
để chạy những hệ thống lớn hơn rất nhiều
114. Ví dụ, có 1 nhóm nghiên cứu đang chế tạo
nhà máy điện 5MW dựa vào phản ứng
hạt nhân năng lượng thấp từ plasma
• Để thành công, họ sẽ cần
những plasmoid rất nhỏ
• Plasmoid được chụp ở bên
phải có đường bán kính
chỉ bằng 300 micron
• Hãy nhớ rằng Vũ trụ chúng
ta chứa nhiều năng lượng
nhất tại những cấp độ nhỏ
nhất!
115. Tại sao họ muốn chế tạo nhà máy điện này?
Nhóm nghiên cứu ước tính rằng giá thành
của điện được sản xuất ra chỉ bằng khoảng
0,002 USD/kWh
(=42 VNĐ/kwH)
Xem http://nextbigfuture.com/2013/03/lpp-
dense-plasma-focus-fusion-peak.html
116. Hãy so sánh với giá điện tại
tỉnh Bắc Kạn hiện nay
117. Động cơ tuabin nổ-vào-trong của
Rockwell là một ví dụ của 1 hệ thống dựa
vào các nguyên lý tạo vụ nổ từ plasma
• http://www.rexres
earch.com/karlaat
e/karlaate.htm
118. Giống như chúng ta đã thấy trong các thí nghiệm
của Kozima và Tada (xem chủ đê 9: Hợp hạch
lạnh), vụ nổ của các plasmoid và EVO cũng khiến
sự chuyển hóa nguyên tố xảy ra trên khắp
bảng tuần hoàn hóa học
• Một ứng dụng của
công nghệ này là xử
lý chất thải phóng xạ
bằng cách chuyển
hóa các nguyên tố
nguy hiểm thành
nguyên tố an toàn
119. Bằng những phương pháp cải tiến (so với công nghệ
ban đầu của Stanley hồi thập niên 80), chúng ta sắp
sẽ có những hệ thống chạy ô tô 100% bằng HHO+NLĐK,
hoàn toàn không dùng đến nhiên liệu xăng
120. Trên toàn thế giới, các nhà sáng chế đang
thi đua nhau để giới thiệu hệ thống
nhiên liệu nước của mình với thị trường.
Chúng ta hãy đảm bảo rằng Việt Nam tích cực
tham gia cuộc chạy đua này!
121. Trong 1 tương lai không xa, các hãng sản xuất
ô tô sẽ lắp đặt hệ thông nhiên liệu nước sẵn
trong mỗi chiếc xe mới
122. Trong những năm gần đay, các nhà phát
minh đã áp dụng khoa học sủi bọt nước cho
một số mục đích khác ngoài ô tô và xe máy
123. Nhiều nhà sinh học cho rằng, nếu chúng ta dùng những
tần số nhất định và xung điện áp cao để cấu trúc lại
các phân tử nước trong nước uống, nó sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho sức khỏe con người
125. Và trong đó, một điều rất quan trọng là
nước trong tuyến tùng (một bộ phận của
não) rất liên quan đến trí thông minh
và trí nhớ một con người
126. Nước uống của chúng ta thường rất
hỗn loạn ở cấp độ phân tử. Nói cách
khác, nó là 1 chất lỏng entropy cao.
127. Nhiều nhà khoa học NLM cho rằng, khi nước uống
hỗn loạn – khi các phân tử không nằm trong 1 cấu trúc hình
học đặc biệt gì cả - điều đó sẽ dẫn đến các mô và các cơ
quan cơ thể cũng “hỗn loạn” vì chúng sẽ không hấp thụ
được oxy một cách dễ dàng từ nước chúng ta đã uống vào
129. Các triệu chứng tâm lý có thể mắc phải khi
uống vào nước hỗn loạn (ở cấp độ phân tử)
có thể gồm sự mất tập trung,
trí nhớ kém, lo âu, trầm cảm…
130. Tuy nhiên, khi ta tạo sự gắn kết lượng tử trong
nước hỗn loạn kia, các phân tử H2O được cấu trúc
lại thành các tinh thể tuyệt đẹp, với mức entropy
thấp hơn và lượng NLĐK cao hơn rất nhiều
131. Liệu nước có cấu trúc hình học ở cấp độ
phân tử có thể giúp các mô và cơ quan
trong cơ thể mạnh khỏe hơn?
• Theo tiến sĩ Peter Agre, nhà hóa học đoạt giải Nobel năm
2003, điều này là hoàn toàn hợp lý
132. Nếu như chúng ta có thể tổ chức nghiên cứu
mù đôi tại ĐH Sư phạm Hà Nội hay Tp.HCM
để xem liệu học lực của học sinh uống “nước
Năng lượng Điểm Không” cao hơn
mức bình thường, thì rất hay.
133. Nếu nước được xử lý để chứa một lượng
lớn NLĐK quả thật là có hỗ trợ trí thông
minh con người, thì có lẽ trong tương lai tất
cả các học sinh sẽ uống nước này tại trường
134. Ngoài các mục đích sử dụng cho sức khỏe con người,
một số công ty (như Cty Steorn ở Ireland) đang triển
khai công nghệ sủi bọt nước để làm máy nước nóng
135. Hãy tưởng tượng một máy nước nóng
tiêu thụ rất ít điện ở đầu vào
136. Hãy tìm hiểu về các hệ thống nước nóng
và sưởi ấm nhà bằng công nghệ
sủi bọt nước tại Nga:
http://www.nangluongmoisaigon.org/s4327903i-7845m-nhagrave-
b7857ng-s7911i-b7885t-n4327899c.html
137. Công ty Solar Hydrogen Trends đã cho thấy
rằng chúng ta có thể sử dụng
nhiên liệu nước để tạo điện nữa
Để biết thêm về SHT, mời bạn xem
http://www.nangluongmoisaigon.org/b7897-qu7889c-phograveng-m7929-
v7899i-sht.html
138. Đây là những chủ đề đang mở ra một chân trời mới
cho ngành giao thông – vận tải và ngành điện!
Trong mục này, chúng ta đã tìm hiểu một số chủ
đề rất “nóng” trong khoa học năng lượng hiện
nay như:
• Loại 2 phản ứng hạt nhân năng lượng thấp (Hợp hạch
lạnh)
• Cách dùng nó để tạo khí HHO với lượng Năng lượng
Điểm Không cao bằng kỹ thuật điện phân thế hệ mới
• Kỹ thuật chiết xuất electron để trích xuất thêm NLĐK
trong 1 hệ thống nhiên liệu nước
• Các cụm khí và tinh thể nước (CWCs), các vật thể chân
không kỳ lạ (EVOs), và các plasmoid
139. Nói tóm lại về phản ứng hạt nhân năng lượng
thấp dựa vào sủi bọt nước, xin hãy lưu ý:
• Các hệ thống này sản xuất năng lượng từ nước, không
khí ion hóa, và khí hiếm bằng cách tạo các phản ứng
trích xuất năng lượng từ chân không lượng tử
• Việc chiết xuất electron và tạo vụ nổ của các cụm khí và
tinh thể nước, cũng như các plasmoid và EVO, có thể
đóng vai trò quan trọng trong các hệ thống nhiên liệu
nước
• Đây là các hệ thống năng lượng đặc biệt hấp dẫn để
chạy các phương tiện có bánh xe và các loại tàu thuyền
• Một số nghiên cứu mới đang tập trung vào khả năng
dùng EVOs để gây sự chuyển hóa nguyên tố
140. Bản thuyết trình này có thể được tải về
từ trang web của
Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam:
http://www.nangluongmoisaigon.org/khoa-
h7885c-n259ng-l4327907ng-m7899i.html
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn đã
dành thời gian tham khảo thông tin này và
chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ tha thứ cho
chúng tôi về các sai sót, cũng như chỉ giáo
cho chúng tôi về cách chỉnh sửa.
141. Như vậy, chúng ta đã học thành công chủ đề
khoa học NLM thứ 10 của mình.
Mọi người đã sẵn sang học tiếp chủ đề thứ 11
chưa? Bạn vừa nói “Sẵn sàng rồi!” phải không ạ?
Nhóm NLM Resonance Project tại Hawaii, http://resonance.is/