Tháng 3/2015, GS.Ts Alexander G. Parkhomov (ĐH Lomonosov-Moskva) đã báo cáo kết quả thử nghiệm thiết bị phản ứng Hợp hạch lạnh phiên bản mới của ông trước một hội đồng khoa học ở Moskva. Đây là bản dịch Powerpoint của Parkhomov hôm đó. Trong đợt thử nghiệm này, Parkhomov đã cho vận hành thiết bị hơn 3 ngày với mức COP cuối cùng hơn 2 (tức năng lượng ở đầu ra lớn hơn năng lượng đầu vào gấp 2 lần). Các thí nghiệm của Parkhomov được xem như là minh chứng cho các thí nghiệm trước đây của Rossi, Pons, Fleischmann, et al. trong lĩnh vực Hơp hạch lạnh (phản ứng hạt nhân an toàn).
Thiết bị phản ứng Hợp hạch lạnh A. Parkhomov: Báo cáo kết quả thử nghiệm vận hành 3 ngày
1. Kết quả thử nghiệm chạy thiết bị
hợp hạch lạnh lâu dài:
Thiết bị do Alexander G. Parkhomov chế
tạo dựa tren thiết kế
của Andrea Rossi
Bản tạm dịch Việt ngữ của
Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam
20/04/2015
www.nangluongmoisaigon.org
GS. Ts Alexander Georgevich Parkhomov
ĐH Lomonosov – Moskva, Nga
2.
3. Các thí nghiệm trước đây với thiết bị tạo nhiệt bằng phản ứng Hợp hạch lạnh
của A. Rossi và các thiết bị tương tự đã cho thấy rằng, với một nhiên liệu hỗn
hợp gồm Niken + LiAlH4, năng lượng sản sinh ra sẽ nhiều hơn năng lượng
thiết bị tiêu thụ khi nhiên liệu được đưa vào một ống gốm được được đệm kín
khít và gia nhiệt trên 1100 độ C.
Tuy nhiên, trong các lần thử nghiệm trước đây, chúng tôi chạy thiết bị chưa đủ
lâu để biết chính xác về các sự thay đổi đồng vị đang xảy ra trong nhiên liệu
hỗn hợp nói trên. Vì thế, chúng tôi xin chạy thiết bị HHL lâu hơn để tìm hiểu
thêm về các sự thay đổi đồng vị cũng như để chứng minh rằng nhiệt thừa
đang sản sinh như một hệ quả sự chuyển hóa hạt nhân lạnh.
Để chạy thiết bị lâu hơn, chúng tôi đã phải thay đổi thiết kế của thiết bị phản
ứng. Thứ nhất, chúng tôi đã phải thay đổi cách đo lượng nhiệt sản sinh ra.
Trước đây, chúng tôi áp dụng phương pháp đun sôi nước. Tuy nhiên, phương
pháp này không còn khả thi vì rất khó để tiếp tục đổ thêm nước vào bồn
24/24 giờ.
4. Thiết kế thiết bị phản ứng cho
các đợt thử nghiệm dài hạn
Ống gốm dài 29cm và nguồn nhiệt chỉ được nối vào tâm của nó. Nhờ
tính dẫn nhiệt thấp của chất gốm, hai bên của ống không được nóng
lắm (nhiệt độ ở tâm ống là 1200 độ C, trong khi nhiệt độ ở 2 bên chỉ
vào 50 độ C). Hai bên của ống được khép kín bằng nhựa epoxy. Nguồn
nhiệt dùng dây điện trở loại Kanthal A1, một loại dây điện có thể chịu
nhiệt tới 1400 độ C. Nhiên liệu hỗn hợp (640 mg Ni + 60 mg LiAlH4)
được đặt trong một bồn inox mỏng. Không khí được bơm ra khỏi ống.
Áp kế Bourdon (đo được áp suất đến tối đa 25 bar), được nối vào thiết
bị phản ứng bằng một ống inox mỏng.
6. Nguồn điện thiết bị phản ứng và
bộ điều chỉnh nguồn điện
Cặp nhiệt điện được giám sát để duy trì nhiệt độ mong muốn. Một máy vi
tính liên tục ghi dữ liệu về lượng điện được thiết bị phản ứng tiêu thụ.
10. Gia nhiệt thiết bị phản ứng
đến nhiệt độ vận hành
Bề mặt của ống gốm được gia nhiệt dần đến 1200 độ C qua 12 tiếng
đồng hồ. Nhiệt độ được tăng như bậc thang đến mức nguồn điện đầu
vào 630 tối đa là 630W. Qua gần 3 ngày chạy thiết bị phản ứng, nguồn
điện cần thiết để duy trì nhiệt độ ống gốm 1200 độ C là 300 đến 400W.
11. Gia nhiệt thiết bị phản ứng đến nhiệt độ vận hành
Sự thay đổi áp suất trong quá trình gia nhiệt
Áp suất bắt đầu tăng từ khi nhiệt độ đạt mức 100 độ C. Áp suất tối đa (khoảng 5
bar) được đạt tại mức nhiệt độ 180 độ C. Sau đó, áp suất giảm. Khi nhiệt độ đứng
trên 900 độ C, áp suất bên trong ống gốm là thấp hơn áp suất không khí bên ngoài.
Chân không cao nhất (khoảng 0,5 bar) xảy ra ở mức nhiệt độ 1150 độ C. Sau đó, áp
suất tăng dần đến mức không khí bên ngoài.
12. Năng lượng tiêu thụ của thiết bị gia nhiệt điện qua 4 ngày
…đến khi nó bị cháy
• Qua gần ba ngày, khi nhiệt độ của thiết bị phản ứng được duy trì ở mức 1200
độ C, nguồn điện cho bộ gia nhiệt là từ 300-400 watt. Ngay khi bộ gia nhiệt
sắp cháy, nguồn điện đầu vào đã tăng nhanh (cố gắng duy trì nhiệt độ ở mức
1200 độ C) và khi bộ gia nhiệt cháy hoàn toàn, nguồn điện đầu vào ở mức 600
watt.
• Bộ gia nhiệt bị cháy là hệ quả của việc dây điện trở bị oxy-hóa.
13. Vận hành thiết bị phản ứng với bộ gia nhiệt mới
Nhiệt độ được duy trì ở mức 1200 độ với nguồn điện từ 500 đến 700 watt.
14. Năng lượng cần thiết để duy trì nhiệt độ mong muốn
• Ở nhiệt độ trên 700 độ C,
thiết bị phản ứng có nhiên
liệu tiêu thụ ít năng lượng
hơn so với thiết bị phản ứng
không có nhiên liệu
• Điều này xác minh rằng có
một nguồn nhiệt ngoài bộ gia
nhiệt điện.
Khi nhiệt độ đạt mức 1200 độ C, nguồn điện cần thiết để duy trì nhiệt độ này (khi
không có nhiên liệu) là 1100 watt. Khi có nhiên liệu, thiết bị phản ứng lúc đầu cần
650 watt, và một tiếng đồng hồ sau nguồn điện xuống còn 300-330 watt. Từ các
số liệu trên, chúng ta có thể ước tính lượng năng lượng thừa bằng 800 watt.
Như vậy, COP = 1100/330 = 3.3
15. Tuy nhiên, mức COP “ước tính” nói trên chưa chính xác vì
ta chưa tính đến các quá trình khác nhau giữa 2 trường hợp
(có và không có nhiên lieu)
Khi không có một nguồn nhiệt
từ bên ngoài, về mặt lý thuyết,
nhiệt độ trong và ngoài ống
gốm là bằng nhau, và nhiệt độ
được đo bởi một cặp nhiệt
điện trên bề mặt bên ngoài
ống lẽ ra nên bằng nhiệt độ
của bề mặt bộ gia nhiệt. Khi
vận hành thiết bị phản ứng
không có nhiên liệu, sự bức xạ
nhiệt từ bên trong ống sang
phía ngoài sẽ tạo một građien
nhiệt độ. Vì thế, nhiệt độ được
đo bởi cặp nhiệt điện sẽ không
bằng nhiệt độ của bề mặt bộ
gia nhiệt.
Khi bề mặt ống phản ứng ở mức 1200 độ C (khi có nhiên liệu tạo nhiệt),
nhiệt độ tại ống bộ gia nhiệt là khoảng 1070 độ C. Vậy, bộ điều chỉnh
nhiệt độ chỉ cung cấp lượng nhiệt vừa đủ khi không có nhiên liệu để đạt
nhiệt độ bằng 1070 độ C (800 W chứ không phải 1100 W).
Vì thế, chúng ta có thể tính mức COP một cách chính xác hơn như sau:
COP = 800/330 = 2.4
16. Tro để lại từ phản ứng Hợp hạch lạnh
(tức nhiên liệu đã sử dụng)
Đồ đựng nhiên liệu (giữa). Ở hai bên là những miếng gốm
Nhiên liệu (tro) sau khi lấy ra từ đồ đựng nhiên liệu Nhiên liệu đã sử dụng (tro) nhìn bằng kính hiển vi
17. Tóm tắt nội dung báo cáo
1. Thiết bị phiên bản mới được vận hành suốt hơn 3 ngày và đã sản
xuất lượng nhiệt gấp hai lần lượng điện nó tiêu thụ. Năng lượng
thừa được sản sinh là khoảng 50kw/giờ hay 180 MJ. Lượng năng
lượng này là tương đương với việc đốt khoảng 3,5 kg dầu.
2. Áp suất trong ống phản ứng là tương đối thấp khi nhiệt độ được
tăng dần (ở đây, áp suất tối đa được đo là 5 bar)
3. Nhiên liệu đã sử dụng có hình dáng hạt nhỏ, màu vàng-nâu, hỗn
hợp với một bột màu xám.
4. Các mẫu nhiên liệu đã sử dụng đã được gửi đi xét nghiệm tỷ lệ
đồng vị. Tuy nhiên, chưa có kết quả để báo cáo.