Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, x-quang phổi, và kết quả khí máu của bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại trung tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, x-quang phổi, và kết quả khí máu của bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại trung tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai
Similar to Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, x-quang phổi, và kết quả khí máu của bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại trung tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai
Similar to Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, x-quang phổi, và kết quả khí máu của bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại trung tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai (20)
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, x-quang phổi, và kết quả khí máu của bệnh nhân có đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị tại trung tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai
1. NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X-QUANG PHỔI,
VÀ KẾT QUẢ KHÍ MÁU CỦA BỆNH NHÂN CÓ ĐỢT CẤP
BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH ĐIỀU TRỊ TẠI
TRUNG TÂM HÔ HẤP - BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Nguyễn Thanh Hồi1
, Phan Thị Hạnh2
1
Trung tâm Hô hấp, 2
Bệnh viện Bạch Mai
Đặt vấn đề: Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đặc trưng bởi: (1) Sự xấu đi so với bình thường của
triệu chứng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và (2) Cần sự thay đổi điều trị so với điều trị hàng ngày của bệnh
nhân.
Mục tiêu nghiên cứu: Đặc điểm lâm sàng, X-quang phổi và khí máu của bệnh nhân đợt cấp BPTNMT”.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, cắt ngang, trên những bệnh
nhân BPTNMT vào viện vì đợt cấp theo tiêu chuẩn Anthonisen N.R (1987).
Kết quả: 60 bệnh nhân đợt cấp BPTNMT, điều trị tại Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng
12 năm 2011 đến tháng 08 năm 2012. Tuổi trung bình: 68 ± 9,7 tuổi, tỷ lệ nam/ nữ: 19/1. Các triệu chứng lâm
sàng thường gặp: khó thở tăng (98,3%), ho tăng (90%), khạc đờm tăng (88,3%) và đờm đục (85%). Lồng
ngực hình thùng: 46/60 (76,7%), rì rào phế nang giảm: 34/60 (56,7%), ran rít: 42/60 (70%), ran ngáy: 41/60
(68,3%). X-quang tim phổi thẳng: hình phổi bẩn 49/60 (81,7%), khí phế thũng: 58,3%. Đường kính nhánh
xuống động mạch phổi phải > 16mm: 16,1%. Pa02 trung bình < 70mmHg, PaC02 trung bình > 45mmHg.
Kết luận: Triệu chứng đợt cấp BPTNMT gặp phổ biến vẫn là khó thở tăng, khạc đờm tăng, biến đổi màu
sắc của đờm. Nhiều bệnh nhân xuất hiện đợt cấp trên bệnh cảnh BPTNMT ban đầu nặng. Hầu hết đều có
biểu hiện toan hô hấp.
STUDY ON THE FEATURES OF CLINICAL, CHEST X RAY, AND ARTERIAL BLOOD GAS OF PATIENTS
WHO HAD EXACERBATION OF CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE, IN RESPIRATORY
CENTER, BACH MAI HOSPITAL
SUMMARY
Background: An exacerbation of COPD may also be defined as: ‘a sustained worsening of the
patient’s condition, from the stable state and beyond normal day-to-day variations, that is acute in onset and
necessitates a change in regular medication in a patient with underlying COPD’
Objective: Features of clinical, chest x ray, and arterial blood gas of patients who had exacerbation of
chronic obstructive pulmonary disease.
Patients and method: Prospective and descriptive research on patients who had exacerbation of
Người phản hồi: Nguyễn Thanh Hồi Email: hoinguyenthanhbm@gmail.com
Ngày nhận bài: 10/2013 Ngày bài báo được đăng: 12/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo cáo: 11/2013
44
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI Số 15 tháng 12/ 2013 ISSN 1859 - 3925
2. chronic obstructive pulmonary disease defined as Anthonisen N.R (1987) criteria.
Results: 60 patients with exacerbation of COPD treated in Respiratory center, Bach Mai hospital from
1/12/2011 to 31/08/2012. Mean age: 68 ± 9.7 year old; male/ female: 19/1. The frequence signs and symtoms:
increased breathlessness (98.3%), cough (90%), sputum volume (88.3%) and purulence sputum (85%).
Barrel chest: 46/60 (76,7%), decreased breath sound: 34/60 (56.7%), wheezing: 42/60 (70%). Chest xray:
thicken bronchial wall: 49/60 (81.7%), emphysema: 58.3%. Lower bronchial artery diameter > 16mm: 16.1%.
Mean Pa02 < 70mmHg, Mean PaC02 > 45mmHg.
Conclusion: Frequence signs and symtoms are: increased breathlessness, cough, sputum volume and
purulence sputum. Many patients experienced exacerbation on the basic of very severe COPD. Most of
patients had respiratory acidosis.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là
bệnh mạn tính, nặng dần theo thời gian, với các đợt
cấp xen kẽ các giai đoạn ổn định. Đợt cấp là nguyên
nhân hàng đầu gây suy hô hấp khiến bệnh nhân
BPTNMT phải nhập viện. Tỷ lệ tử vong của bệnh
còn cao, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong
trong đợt cấp từ 16 – 80% [6,10]
.
Có nhiều định nghĩa về đợt cấp BPTNMT. Theo
Papi và cộng sự, đợt cấp BPTNMT là “Sự xấu đi
của triệu chứng hô hấp dẫn đến bệnh nhân cần có
các chăm sóc y tế”[7]
. Theo Pauwels và cộng sự, đợt
cấp BPTNMT là “tình trạng xấu đi của triệu chứng
hô hấp, khởi phát cấp tính đòi hỏi bệnh nhân tìm
đến sự hỗ trợ y tế hoặc thay đổi trong điều trị’’[8]
.
Để thuận tiện trong việc áp dụng cho các nghiên
cứu thử nghiệm lâm sàng, Casaburi và cộng sự đã
đưa ra định nghĩa đợt cấp BPTNMT “là sự tăng lên
của ho, khó thở kèm sự thay đổi màu sắc và chất
lượng của đờm dẫn đến bệnh nhân cần sự can
thiệp y tế ít nhất trong 3 ngày”[4]
. Tuy nhiên, không
có một bằng chứng nào nói rằng triệu chứng đợt
cấp BPTNMT phải kéo dài đến 3 ngày. Như vậy,
hầu hết các định nghĩa về đợt cấp của bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính đều bao gồm hai điểm (1) Sự
xấu đi so với bình thường của triệu chứng bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính và (2) Cần sự thay đổi điều trị
so với điều trị hàng ngày của bệnh nhân. Để cung
cấp thêm những thông tin về đợt cấp bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài này nhằm mục tiêu: “Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng, X-quang phổi và khí máu của bệnh nhân
đợt cấp BPTNMT”.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: chọn đưa vào
nghiên cứu những bệnh nhân thỏa mãn các tiêu
chuẩn sau
- Bệnh nhân được chẩn đoán có bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính theo tiêu chuẩn GOLD (2009):
FEV1/FVC (sau test hồi phục phế quản) < 70%.
Điều trị tại Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai
từ 01/12/2011 đến 31/08/2012.
- Chẩn đoán xác định có đợt cấp bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính theo tiêu chuẩn Anthonisen N.R
(1987). [4]
+ Có cả ba triệu chứng: khó thở tăng lên, lượng
đờm tăng lên và đờm chuyển màu (đờm vàng,
xanh), hoặc
+ Có hai triệu chứng kể trên, hoặc
+ Có một triệu chứng kể trên nhưng kèm theo
ít nhất một trong các triệu chứng sau: sốt không do
nguyên nhân nào khác, thở khò khè tăng lên, ho
tăng lên, nhịp thở và nhịp tim tăng trên 20% so với
trước khi có đợt cấp.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả, cắt ngang.
Tất cả số liệu thu thập được theo một mẫu
bệnh án nghiên cứu thống nhất, thông tin được lấy
từ hồ sơ bệnh án.
Các bước tiến hành
- Khám lâm sàng: thu thập tất cả bệnh nhân
45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ISSN 1859 - 3925 Số 15 tháng 12/ 2013 TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI
3. vào viện định hướng đến đợt cấp BPTNMT được
hỏi tiền sử.
- Bệnh sử: lý do vào viện và diễn biến bệnh
(sốt, ho, khạc đờm, màu sắc của đờm, khó thở)
- Khám lâm sàng: hội chứng nhiễm trùng, nghe
phổi phát hiện các loại ran ở phổi (ran rít, ran ngày,
ran nổ, ran ẩm)
- Xét nghiệm cận lâm sàng: đo SpO2, làm
khí máu động mạch ngay khi hướng tới đợt cấp
BPTNMT, chụp X-quang phổi, và các xét nghiệm
công thức máu, sinh hóa máu.
- Thống kê và xử lý dữ liệu: các kết quả thu
được sẽ thống kê và xử lý theo phương pháp thống
kê y học: tính tỷ lệ %, số trung bình độ lệch chuẩn.
III. Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm về tuổi và giới
Nghiên cứu thu nhận 60 bệnh nhân, 57 bệnh
nhân nam (95%) và 5 bệnh nhân nữ (5%). Tuổi
trung bình: 68 ± 9,7 (thấp nhất là 48 tuổi, cao nhất
là 92 tuổi), hầu hết đối tượng nghiên cứu > 50 tuổi
(98,3%).
Triệu chứng cơ năng đợt cấp BPTNMT
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng vào viện
Dấu hiệu
Có Không Tổng
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % N Tỷ lệ %
Khó thở tăng 59 98,3 1 1,7 60 100
Ho tăng 54 90 6 10 60 100
Khạc đờm tăng 53 88,3 7 11,7 60 100
Đờm đục 51 85 09 15 60 100
Sốt 14 23,3 46 76,7 60 100
Đau ngực 11 18,3 49 81,7 60 100
Chảy nước mũi 1 1,7 59 98,3 60 100
Đau họng 2 3,3 58 96,7 60 100
Nhận xét: những triệu chứng hay gặp nhất là khó thở tăng (98,3%), ho tăng (90%), và khạc đờm tăng
(88,3%), đờm đục (85%). Sốt chiếm 23,3%, đau ngực 18,3%. Triệu chứng viêm long đường hô hấp trên 5%.
Triệu chứng thực thể đợt cấp BPTNMT
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng thực thể
Dấu hiệu Số lượng Tỷ lệ %
Dấu hiệu khám ngực
Lồng ngực hình thùng 46 76,7%
Rì rào phế nang giảm 34 56,7%
Ran rít 42 70%
Ran ngáy 41 68,3%
Ran ẩm 8 13,3%
Ran nổ 19 31,7%
Dấu hiệu tâm phế mạn tính
Phù chân 09 15%
Mắt lồi 23 38,3%
Gan to 19 31,7%
Dấu hiệu hartzer 27 45%
46
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI Số 15 tháng 12/ 2013 ISSN 1859 - 3925
4. Nhận xét: lồng ngực hình thùng là triệu chứng
gặp nhiều nhất (76,7%). Trong các loại ran, ran rít
và ran ngáy chiếm tỷ lệ cao nhất (70% và 68,3%).
Dấu hiệu tâm phế mạn: phù chân (15%), gan to
(31,7%), Hartzer dương tính (45%), mắt lồi (38,3%).
Đặc điểm X-quang phổi và khí máu động
mạch
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân theo dấu hiệu trên
X-quang tim phổi thẳng
Dấu hiệu
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Hình phổi bẩn 49 81,7%
Khoang liên sườn giãn rộng 35 58,3%
Vòm hoành bậc thang 16 26,7%
Vòm hoành phẳng 18 30%
Vòm hoành đảo 2 3,3%
Tim hình giọt nước 32 53,3%
ĐK động mạch phổi phải > 1,6cm 10 16,1%
Nhận xét: hội chứng phế quản: hình ảnh phổi
bẩn có 49/60 (chiếm 81,7%); hội chứng khí phế
thũng: khoang liên sườn giãn rộng có 58,3%, vòm
hoành bậc thang có 26,7%, vòm hoành phẳng 30%,
vòm hoành đảo 3,3%.
Dấu hiệu tâm phế mạn: 16,1% bệnh nhân
đường kính nhánh xuống động mạch phổi phải >
1,6cm. Không bệnh nhân nào có hình ảnh tim to
toàn bộ.
Khí máu đợt cấp BPTNMT
Bảng 3.4. Phân bố bệnh nhân theo các thông số
khí máu động mạch
Thông số Kết quả trung bình
Pa02 (mmhg) 69,28 ± 25,89
PaC02 (mmhg) 58,73 ± 25,89
HCO3 36,05 ± 18,17
pH 7,25 ± 0,095
Nhận xét: Pa02 trung bình < 70mmHg trong đó
tỷ lệ bệnh nhân có Pa02 < 60mmHg chiếm 19/60
(31,7%); PaC02 trung bình > 45mmHg trong đó tỷ lệ
bệnh nhân PaC02 > 45mmHg chiếm 43/60 (71,7%);
HCO3 trung bình > 22mmhg; pH trung bình: toan hô
hấp < 7,3
IV. BÀN LUẬN
Triệu chứng cơ năng đợt cấp BPTNMT
Khó thở tăng là triệu chứng gặp ở 59/60
(98,3%) đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của một
số tác giả khác:
Nghiên cứu của Trần Hoàng Thành và cộng sự
(2007)[2]
: 150/150 (100%) đối tượng nghiên cứu có
triệu chứng khó thở trong đợt cấp BPTNMT.
Nghiên cứu của Vũ Duy Thướng (2008)[3]
:
30/30 (100%) bệnh nhân có khó thở tăng.
Tăng số lượng đờm gặp ở 53/60 (88,3%) bệnh
nhân, ho tăng gặp ở 54/60 (90%) bệnh nhân, đờm
đục gặp 51/ 60 (85%) bệnh nhân. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng tương tự kết quả Vũ Duy
Thướng[3]
: khạc đờm tăng (73,3%), ho tăng (80%),
đờm đục (100%).
Chỉ có 5% đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
lúc vào viện có dấu hiệu viêm long đường hô hấp
trên. Điều này có thể lý giải do hiểu biết của bệnh
nhân về BPTNMT còn hạn chế. Các triệu chứng
nhiễm trùng đường hô hấp khi mới khởi phát không
được điều trị hoặc điều trị không đúng cách, chỉ
khi có các biểu hiện rầm rộ với các biểu hiện sốt,
khó thở, ho nhiều, đờm đục ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống người bệnh mới đến viện. Đồng
thời chính các triệu chứng hô hấp này là cơ sở
giúp người thầy thuốc lựa chọn phương pháp điều
trị thích hợp: gia tăng điều trị thông thường, dùng
corticoid, dùng kháng sinh, hay dùng kháng sinh kết
hợp corticoid.
Triệu chứng thực thể đợt cấp BPTNMT
Lồng ngực hình thùng gặp ở 76,7%, rì rào
phế nang giảm gặp 56,7% đối tượng nghiên cứu.
Kết quả này thấp hơn Vũ Duy Thướng (2008)[3]
:
100% bệnh nhân có lồng ngực hình thùng và rì rào
phế nang giảm. Hoàng Hồng Thái (2005)[1]
: 79/87
(90,8%) bệnh nhân có lồng ngực hình thùng, 27/87
(31%) bệnh nhân có rì rào phế nang giảm.
47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ISSN 1859 - 3925 Số 15 tháng 12/ 2013 TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI
5. Dấu hiệu suy tim phải: gan to (31,7%), phù
chân (15%), dấu hiệu Hartzer dương tính (45%),
mắt lồi (38,3%). Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Vũ Duy Thướng: gan to (33,3%),
phù chân (13,3%). Điều này phù hợp với diễn biến
của quá trình bệnh do hầu hết đối tượng nghiên cứu
của chúng tôi đều ở vào các giai đoạn cuối của bệnh
(70% bệnh nhân giai đoạn 3 và 4).
Triệu chứng ran co thắt phế quản gặp ran rít
(70%), ran ngáy (68,3%), ran nổ (31,7%), thấp nhất
ran ẩm (13,3%). Điều này được lý giải trong đợt cấp
BPTNMT do viêm nhiễm làm co thắt phế quản, cản
trở lưu thông không khí sẽ dẫn đến suy hô hấp nếu
không được điều trị kịp thời. Tuy nhiên, tình trạng
này có thể đảo ngược nhờ các thuốc giãn phế quản
và corticoid. Theo hướng dẫn của GOLD đã khẳng
định việc quản lý các đợt kịch phát có liên quan tăng
liều lượng và hoặc tần số các thuốc giãn phế quản
điều trị hiện có, đặc biệt nhấn mạnh vai trò các thuốc
cường β2 trong điều trị đợt cấp.
Như vậy, hầu hết các bệnh nhân BPTNMT có
đợt cấp vào viện đều có tình trạng chung rất nặng,
45% đã có dấu hiệu lâm sàng của tâm phế mạn.
Triệu chứng trên X-quang tim phổi thẳng
X-quang phổi không có giá trị chẩn đoán xác
định, nhưng có giá trị trong chẩn đoán biến chứng
và chẩn đoán phân biệt BPTNMT. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, các hình ảnh tổn thương trên
X-quang phổi gặp là: hình ảnh phổi bẩn là dấu hiệu
thường gặp nhất: 81,7%.
Khí phế thũng gặp tỷ lệ thấp hơn: khoang liên
sườn giãn rộng (58,3%), tim hình giọt nước (53,3%),
vòm hoành bậc thang (26,7%), vòm hoành phẳng
(30%), đường kính nhánh xuống động mạch phổi
phải > 16mm (16,1%).
Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của
Vũ Duy Thướng[3]
: tim hình giọt nước (60%), cơ
hoành hình bậc thang (83,3%). Về hình ảnh phổi
bẩn nghiên cứu Vũ Duy Thướng gặp với tỷ lệ thấp
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi (46,7%).
Không có bệnh nhân nào trong nghiên cứu của
chúng tôi có đám mờ trên phim X-quang. Do tiêu
chí lựa chọn bệnh nhân vào nghiên cứu là đợt cấp
BPTNMT, loại trừ những bệnh nhân có triệu chứng
viêm phổi. Tuy nhiên, trên thực hành lâm sàng gặp
rất nhiều khó khăn để phân biệt một bệnh nhân vào
viện vì đợt cấp BPTNMT hay vì một đợt viêm phổi
trên nền BPTNMT. Trong những trường hợp như
vậy vai trò X-quang tim phổi thẳng rất quan trọng.
Đặc điểm khí máu đợt cấp BPTNMT
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ghi nhận các
kết quả khí máu: Pa02: 69,28 ± 25,89 (mmhg);
PaC02: 58,73 ± 25,89 (mmhg); pH: 7,25±0,095.
Như vậy, có thể nhận thấy, hầu hết trường hợp đợt
cấp BPTNMT nhập điều trị tại Trung tâm Hô hấp–
Bệnh viện Bạch Mai đều đã có biểu hiện toan hô
hấp mạn tính.
Kết quả của chúng tôi tương tự kết quả một số
tác giả khác: Theo Vũ Duy Thướng (2008)[3]
nghiên
cứu trên 30 bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT nhận
thấy, PaO2 trung bình: 69,4±13,4mmHg; PaCO2
trung bình: 44,8±5,6mmHg. Theo Stolz D (2007)[9]
PaO2 trung bình: 65,9±15,7mmHg; PaCO2 trung
bình: 43,8±11mmHg.
Thay đổi thành phần khí máu là một mắt xích
quan trọng trong sinh lý bệnh của BPTNMT, nó thay
đổi theo tiến triển của bệnh. Sự tổn thương đường
thở và phá hủy các phế nang gây rối loạn thông khí
là cơ chế chính làm giảm oxy máu động mạch kết
hợp tăng carbondioxid. Thông thường Pa02 giảm
từ giai đoạn đầu, PaC02 chỉ tăng ở giai đoạn nặng
của bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi PaC02 trung
bình > 45mmHg, kết quả này phù hợp vì 70% đối
tượng nghiên cứu giai đoạn nặng của bệnh (giai
đoạn 3 và 4).
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu 60 bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT
nhập viện điều trị tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 08 năm
2012, chúng tôi có một số kết luận sau:
- Tuổi trung bình: 68 ± 9,7 tuổi. Tỷ lệ nam/ nữ:
19/1.
- Khó thở tăng (98,3%), ho tăng (90%), khạc
đờm tăng (88,3%) và đờm đục (85%) là những triệu
48
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI Số 15 tháng 12/ 2013 ISSN 1859 - 3925
6. 1. Hoàng Hồng Thái, Bùi Thu Vân (2005), “Nguyên
nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được
điều trị tại kho hô hấp Bệnh viện Bạch Mai 6 tháng
đầu năm 2005”, Tạp chí nghiên cứu y học. Tập 5:
phụ trương 53. tr. 94-99.
2. Trần Hoàng Thành, Thái Thị Huyền (2006), “Tìm
hiểu đặc điểm lâm sàng đợt cấp của 150 bệnh nhân
BPTNMT điều trị tại khoa Hô hấp bệnh viện Bạch
Mai theo phân loại Anthonisen”, Tạp chí nghiên cứu
khoa học, 53. tr. 100 - 103.
3. Vũ Duy Thướng và cộng sự (2008), “Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, vi khuẩn gây
bệnh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính “,
Luận văn thạc sỹ y học, tr. 36.
4. Anthonisen NR MJ, Warren CPW, Hershfield ES,
Harding GK, Nelson NA, (1987), “Antibiotic therapy
in exacerbations of chronic obstructive pulmonary
disease”, Ann Intern Med, 106, pp. 196-204.
5. Casaburi R, Mahler DA, Jones PW và cộng
sự (2006), “ A long-term evaluation of once-daily
inhaled tiotropium in chronic obstructive pulmonary
disease”, Eur Respir J, 19, pp. 217-224.
6. Nseir S, Di Pompeo, C, Cavestri, B và cộng
sự ( 2006 ), “Multiple-drug-resistant bacteria in
patients with severe acute exacerbation of chronic
obstructive pulmonary disease: Prevalence, risk
factors, and outcome”, Crit Care Med, 34, pp. 2959.
7. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F và cộng sự
(2006), “Infections and airway inflammation in
chronic obstructive pulmonary disease severe
exacerbations”. Am J Respir Crit Care Med 2006;
173:1114–1121.
8. Pauwels R, Calverley P, Buist AS và cộng sự
(2004), “ COPD exacerbations: the importance of a
standard definition”, Respir Med J, 98, pp. 99-107.
9. Stolz D (2007), “Copectin, CRP and procalcitonin
as prognostic biomarker in AECOPD”, Chest, 131,
pp. 1058-67.
10. Timothy G, Quinnell MSP, BSc, John M. MA,
DM; và Ian E.Smith, MA, (2006), “Prolonged
Invasive Ventilation Following Acute Ventilatory
Failure in COPD * Weaning Results, Survival, and
the Role of Noninvasive Ventilation “, CHES, 129,
pp. 133 – 139.
chứng thường gặp nhất.
- Triệu chứng thực thể: lồng ngực hình thùng:
46/60 (76,7%), rì rào phế nang giảm: 34/60 (56,7%),
ran rít: 42/60 (70%), ran ngáy: 41/60 (68,3%).
- X-quang tim phổi thẳng: hình phổi bẩn: 49/60
(81,7%). Khoang liên sườn giãn rộng: 58,3%.
- Dấu hiệu tâm phế mạn: 16,1% có đường kính
nhánh xuống động mạch phổi phải > 16mm.
- Pa02 trung bình < 70mmhg; PaC02 trung bình
> 45mmhg; pH: 7,25±0,095.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
49
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ISSN 1859 - 3925 Số 15 tháng 12/ 2013 TẠP CHÍ LAO VÀ BỆNH PHỔI