SlideShare a Scribd company logo
1 of 129
Download to read offline
1
®¹i häc th¸i nguyªn
Tr−êng ®¹i häc s− ph¹m
§ång V¨n Qu©n
lÞch sö triÕt häc
®Ò c−¬ng bµi gi¶ng
(Dïng cho chuyªn ngµnh gi¸o dôc chÝnh trÞ)
Th¸i Nguyªn 2010
2
CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ TRIẾT HỌC VÀ
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận chung về triết học, lịch sử
triết học, làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá các đường lối triết
học trong lịch sử.
Thời lượng: 2 tiết lý thuyết
I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm ở một số trung
tâm lớn như Hy Lạp - La Mã Cổ đại, Ấn Độ Cổ đại, Trung Quốc Cổ đại...
(từ khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ V trước công nguyên)
Theo tiếng Hy Lạp cổ, từ triết học (philosophia) nghĩa là yêu mến sự
thông thái; trong tiếng Trung Quốc từ Triết có nghĩa là lý trí; trong tiếng
Phạn cổ từ triết học (darshana) có nghĩa là chiêm ngưỡng, suy ngẫm để đi
đến lẽ phải. Như vậy với tính cách là một hình thái ý thức xã hội triết học
phải bao gồm hai yếu tố cơ bản là yếu tố nhận thức và yếu tố nhận định.
Khái quát lại có thể định nghĩa về triết học như sau: Triết học là một
hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai
trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời từ nhu cầu của thực tiễn và để phục vụ cho nhu cầu
sống của con người. Sự ra đời của triết học bắt nguồn từ hai nguồn gốc là
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức là sự hình thành, phát triển của năng lực tư
duy trừu tượng khái quát của con người.
3
- Nguồn gốc xã hội của nó là sự phát triển của phân công lao động xã
hội thành lao động chân tay và lao động trí óc trong xã hội có giai cấp. Cho
nên ngay từ khi mới ra đời triết học đã mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi
ích của một giai cấp nhất định
2.Đốitượngcủatriếthọc
Đối tượng của triết học được hình thành, biến đổi dần dần qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau.
Dưới thời Cổ đại, với nền triết học tự nhiên ở phương Tây, triết học
bao gồm tất cả những tri thức mà con người có được: toán học, vật lý học,
thiên văn học, siêu hình học...nên chưa có sự phân biệt đối tượng của triết
học với đối tượng của khoa học. Đây là cơ sở hình thành nên quan niệm coi
triết học là “khoa học của mọi khoa học”.
Dưới thời Trung cổ, do sự thống trị của tôn giáo, triết học tự nhiên
được thay thế bằng triết học Kinh viện nên nó phát triển một cách chậm
chạp. Thực chất đây là giai đoạn phủ định nền văn minh cổ đại. Đối tượng
của triết học Kinh viện chỉ là các vấn đề tự biện như niềm tin tôn giáo, thiên
đường, địa ngục; chúng xa rời với cuộc sống.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học dưới thời Phục hưng- Cận đại
làm xuất hiện một loạt các khoa học chuyên ngành, cụ thể: toán học, vật lý
học, sinh học...Vấn đề đối tượng của triết học bắt đầu được đặt ra. Chủ nghĩa
duy vật siêu hình dựa trên nền tảng tri thức học đã giải quyết tốt các vấn đề
về tự nhiên nhưng lại không giải quyết được các vấn đề xã hội. Hệ thống
triết học duy tâm của Hê ghen là hệ thống triết học cuối cùng có tham vọng
đứng trên các khoa học với tính cách là “khoa học của các khoa học”. Sau
khi hệ thống này bị phá sản đã có những quan niệm cho rằng “triết học đã
chết” hay triết học chỉ nghiên cứu vấn đề phương pháp.
4
Với sự ra đời của triết học Mác, đối tượng của triết học lần đầu tiên
trong lịch sử được xác lập một cách đúng đắn. Đối tượng nghiên cứu của
triết học Mác là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo lập
trường duy vật triệt để, nghiên cứu những quy luật chung nhất củ tự nhiên,
xã hội và tư duy.
II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC
Qua trình hình thành, phát triển của triết học trong lịch sử luôn có
những tính quy luật chung như: Nó gắn với những điều kiện kinh tế-xã hội
nhất định (cơ sở kinh tế xã hội, đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các lực
lượng xã hội…); nó gắn với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó gắn với
cuộc đấu tranh giữa các đường lối triết học (duy vật và duy tâm, biện chứng
và siêu hình, khả tri và bất khả tri luận…).
- Trước hết, sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn với
những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, gắn với các cuộc đấu tranh giai cấp
nhất định. Các trường phái triết học trong lịch sử luôn là nền tảng thế giới
quan của các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Cghủ nghĩa duy vật là đại
diện tư tưởng cho những lực lượng tiến bộ, còn chủ nghĩa dyt tâm đại biểu
cho những lực lượng phản động (VD cụ thể).
- Sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn liền với sự phát
triển của khoa học tự nhiên và xã hội. Ăngghen đã khẳng định: Mỗi khi khoa
học tự nhiên phát triển nó đều đòi hỏi chủ nghĩa duy vật phải có sự thay đổi
hình thức tồn tại của mình. Triết học phải dựa trên cơ sở khái quát các tri
thức khoa học cụ thể. Khoa học luôn là một trong những tiền đề của triết
học.
5
- Lịch sử triết học là lịch sử hình thành và đấu tranh qua lại giữa các
đường lối, trường phái triết học như: duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu
hình, khả tri và bất khả tri luận, duy cảm và duy lí… Các trường phái triết
học không chỉ phủ định, bài trừ nhau mà chúng còn kế thừa lẫn nhau. Cuộc
đấu tranh xuyên suốt lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
III. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC, CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
Giải quyết vấn đề cơ bản vừa là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác,
vừa là tiêu chuẩn để phân định lập trường, thế giới quan của các nhà triết
học và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hại mặt:
- Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức thì cái nào
có trước, cái nào có sau; cái nào sinh ra cái nào; cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?
Tuỳ thuộc vào cách trả lời cho những câu hỏi trên mà các nhà triết học
được phân ra thành những trường phái, những đường nlối khác nhau.
2. Các trường phái triết học
a. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy vật: Trường phái này cho rằng vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau; vật chất sinh ra ý thức; vật chất quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật tồn tại dưới ba hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
6
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác tồn tại trong nền triết học cổ đại; còn
mang tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng
CNDVCD cơ bản là đúng đắn vì nó đã lấy tự nhiên để giải thích cho tự
nhiên, không viện đến thần linh hay thượng đế.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 là đỉnh cao
của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Nó đã góp phần quan trọng vào việc
chống chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Tuy nhiên, do bị hạn chế bởi phương
pháp tư duy siêu hình nên duy vật chưa triệt để, duy vật về tự nhiên nhưng
lại duy tâm về xã hội.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập và phát
triển. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, là chủ nghĩa
duy vật triệt để.
- Chủ nghĩa duy tâm: trường phái này cho rằng ý thức, tinh thần mới
là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tồn tại
dưới hai hình thức là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có tồn tại một lực lượng tinh
thần khách quan có trước giới tự nhiên, là nguyên nhân sinh ra giới tự nhiên và
chi phối toàn bộ thế giới (linh hồn thế giới, ý niệm tối cao, ý niệm tuyệt đối...).
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng chính cảm giác cá nhân của
mỗi người đã sinh ra thế giới hiện thực xung quanh, do đó thế giới không
tồn tại khách quan mà phụ thuộc vào cảm giác của mỗi người.
- Nhị nguyên luận là một trường phái triết học không cơ bản, một
đường lối trung gian. Trường phái này cho rằng thế giới bắt nguồn từ hai
nguồn gốc khác nhau là nguồn gốc vật chất và nguồn gốc tinh thần cho nên
vật chất và ý thức – không cái nào có trước có sau, không cái nào sinh ra cái
nào, không cái nào quyết định cái nào.
7
b. Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết
- Thuyết có thể biết (khả tri luận) là một đường lối cơ bản trong nhận
thức luận. Theo thuyết này thì thế giới là có thể nhận thức, con người có thể
biết được bản chất của thế giới. Đa số các nhà duy vật đi theo đường lối này,
ngoài ra còn có nhiều nhà duy tâm cũng có quan điểm khả tri.
- Thuyết không thể biết (bất khả tri luận), ngược lại cho rằng con
người không có khả năng nhận thức bản chất của thế giới, mọi tri thức đều là
chủ quan do con người tự tạo ra không có liên quan gì đến thế giới.
IV. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và ph pháp biện chứng
a.Phương pháp siêu hình
Phương pháp siêu hình là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khoie
các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có thừa nhận sự biến
đổi thì chỉ nhìn nhận là sự biến đổi về số lượng coi nguyên nhân của sự biến
đổi nằm ở ngoài đối tượng.
+ Xem xét các sự vật ở trạng thái phi mâu thuẫn
b. Phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liện hệ với nhau, ảnh hưởng
nhau, ràng buộc nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong
khuynh hướng chung là phát triển. Nhìn nhận phát triển là quá trình thay đổi
về chất của các sự vật hiện tượng và nguồn gốc của sự thay đổi ấy là các
mâu thuẫn nội tại của chúng.
8
+ Coi thế giới là sự thống nhất của các mặt đối lập.
2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã trải qua ba giai đoạn phát triển thể hiện dưới ba
hình thức lịch sử là phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và
phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng tự phát tồn tại trong nền triết học cổ đại. Các nhà
biện chứng thời kỳ này đã thữa nhận rằng các sự vật hiện tượng trong thế
giới không ngừng sinh thành biến hoá vô tận. Đây là kết quả quan sát trực
tiếp nên còn thể hiện tính trực quan ngây thơ.
- Phép biện chứng duy tâm do Hêghen xây dựng một cách tự giác, có
hệ thống nhưng trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm cho nên còn mang tính
thần bí khó hiểu và chưa triệt để. Mác gọi đây là phép biện chứng “ lộn đầu
xuống đất”
- Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập trên cơ sở kế
thừa phép biện chứng của Hêghen, tẩy rửa nó khỏi chủ nghĩa duy tâm, đặt
cho nó “ đứng bằng chân”. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của phương
pháp biện chứng - phép biện chứng triệt để.
V. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Vai trò của triết học được thể hiện bằng chức năng của nó. Triết học
có nhiều chức năng khác nhau như chức năng nhận thức, chức năng đánh
giá, chức năng giáo dục... Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan
và chức năng phương pháp luận.
1.Chức năng thế giới quan của triết học
Những vấn đề mà triết học đặt ra và tìm cách giải quyết trước hết là
vấn đề thế giới quan. Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con
9
người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới đó.
Trong thế giới quan có sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Tri
thức là cơ sở trực tiếp làm hình thành thế giới quan nhưng tri thức chỉ gia
nhập thế giới quan khi nó biến thành niềm tin.
Thế giới quan có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống con người.
Nó là một “thấu kính” mà qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh
và bản thân mình; là cơ sở cho các hành vi của con người trong xã hội; là
nguyên tắc cho các hoạt động của con người; là định hướng cho quá trình
hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cá nhân.
Trong quá trình phát triển lịch sử của mình thế giới quan đã lần lượt
trải qua ba hình thức là thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và
thế giới quan triết học.
- Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của con
người nguyên thuỷ mà ở đó có sự đan bện giữa các yếu tố trí tuệ và tình
cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và hư ảo, cái thần và cái người...không
thể phân định.
- Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ đạo;
tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái hư ảo lấn át cái thực như Téc tu liêng đã từng
tuyên bố: "Tôi tin vì điều đó là vô lý”.
- Thế giới quan triết học là trình độ tự giác và cao nhất của thế giới
quan mà trong đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là lý luận về
thế giới quan. Triết học có nhiệm vụ đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế
giới cho nên nó có vị trí là cơ sở lý luận cho các khoa học và định hướng cho
sự hình thành thế giới quan cá nhân của mỗi người và mỗi cộng đồng.
Chức năng thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ: là hạt nhân
lý luận của thế giới quan nên nó làm cho thế giới quan phát triển một cách tự
10
giác trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và các tri thức do các khoa
học đưa lại.
2.Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan
điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Có ba loại phương pháp luận là phương pháp luận ngành, phương pháp luận
chung và phương pháp luận chung nhất.
Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi
quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác
lập phương pháp, là lý luận về phương pháp.
3. Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể
Triết học bắt nguồn từ các khoa học cụ thể, là kết quả khái quát từ
những tri thức khoa học cụ thể.
Ngượpc lại chính triết học lại trở thành cơ sở lý luận và cơ sở phương
pháp luận cho các khoa học cụ thể phát triển.
-----------------------------------------------
NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP
1. Vấn đề cơ bản của triết học và các đường lối triết học?
2. Sự đối lập giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình?
11
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của
triết học Ấn Độ cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết học và
nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ,
trung đại.
Thời lượng: 8 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận.
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học ấn Độ Cổ đại
a. Điều kiện tự nhiên
Ấn Độ Cổ đại là một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam châu Á với
địa hình phức tạp. Phía Bắc bị án ngữ bởi dãy Hymalaya hùng vĩ với trên
bốn chục ngọn núi cao trên một nghìn mét so với mặt nước biển, quanh năm
tuyết phủ. Phía Đông, Nam và Tây nam được bao bọc bởi Ấn Độ dương.
Lãnh thổ được chia cắt thành nhiều vùng: vùng đồng bằng đất đai màu mỡ,
nằm dọc theo lưu vực hai con sông lớn - sông Ấn và sông Hằng; vùng sa
mạc khô cằn; vùng núi non hiểm trở và vùng cao nguyên với hệ thống sông
ngòi chằng chịt.
b. Điều kiện kinh tế xã hội
Nền văn minh đầu tiên xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại cách đây khoảng bốn
nghìn năm trăm năm, đó là nền văn minh Sông Ấn. Nền văn minh này tồn
tại đến khoảng thế kỷ XVII Tr.CN thì bị diệt vong mà không rõ nguyên
nhân. Từ khoảng thế kỷ XV Tr.CN người Arya từ Tây bắc tràn xuống chinh
phục Ấn Độ cổ đại, sau đó bị đồng hoá vào nền văn minh của người Dra vi
da bản sứ và trở thành chủ nhân của Ấn Độ cổ đại. Từ thế kỷ VII Tr.CN đất
nước Ấn Độ trải qua nhiều biến cố với các cuộc chiến tranh giữa các vương
12
triều và chiến tranh chống sự xâm lăng từ bên ngoài. Thời cổ đại của Ấn Độ
kéo dài đến thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên.
Những đặc điểm nổi bật về kinh tế - xã hội thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ là:
+ Sự tồn tại bền vững, dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với sở
hữu nhà nước về đất đai.
+ Xã hội được phân hoá thành những dẳng cấp chính: tăng lữ (
Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân (Vaisya) và tiện nô (Ksudra).
+ Sự thống trị của tôn giáo trên tất cấcc lĩnh vực của đời sống xã hội.
c. Điều kiện về văn hoá
Ấn Độ cổ đại có nền văn hoá, khoa học phát triển tương đối rực rỡ,
với nhiều giá trị để lại cho đời sau như: toán học, y học, kiến trúc, tâm lý
học, triết học...
Văn hoá Ấn Độ cổ, trung được chia thành ba thời kỳ: Văn minh Sông
Ấn (TK XXV Tr.CN - TK XV Tr.CN), văn minh Vêda ( TK XV Tr.CN -
TK VII Tr.CN), văn minh Hậu Vêda (từ TK VII Tr.CN).
2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại hình thành và phát triển chủ yếu là từ TK VII
Tr.CN Trở về sau. Ở thời kỳ này xuất hiện hai nhóm với các trường phái
khác nhau:
- Các trường phái chính thống thừa nhận quyền uy của kinh Vêda:
Samkhya, Mimansa, Vedalta, Yoga, Nyaya, Vaisesika.
- Các trường phái không chính thống phủ nhận quyền uy của kinh
Vêda: Lôkayata, Jaina, Đạo phật.
- Đặc điểm chung của triết học ấn Độ cổ, trung đại là:
+ Sự đan xen giữa triết học và tôn giáo.
+ Sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
13
+ sự kế tục lần nhau giữa các học phái và sự kế tục các tư tưởng của
Vêda trong các học phái khác nhau.
+ Quan niệm về bản thể có tính trừu tượng cao, đặc biệt là về cái
“không”.
II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ VEDA
1. Tư tưởng Kinh Veda
Veda là bộ sách cổ nhất của người Ấn Độ cổ đại cũng như của nhân
loại nói chung. Nó bao gồm những câu ca dao, vịnh phú, những tập tục, nghi
lễ, những bài cúng tế, phù chú, ma thuật… được các bộ tộc người Arya sang
tác ra trong vòng hơn một nghìn năm; lúc đầu bằng con đường truyền miệng,
từ thế kỷ XI đến TK VIII trước CN được chép thành văn bản.
Kinh Veda bao gồm 4 bộ kinh sớm là: Rig-Veda, Sama-Veda, Yajur-
Veda và Atharva-Veda; sau đó được bổ sung them 2 bộ kinh trung là
Brahmana và Aranyaka; bộ kinh cuối cùng là Upanishad.
Thế giới quan trong các bộ kinh sớm và kinh trung là thế giới quan
thần luận – tôn giáo, lúc đầu là Đa thần luận, về sau phát triển thành Nhất
thần luận.
Upanishad là bộ kinh cuối cùng chứa đựng tư tưởng duy tâm khách
quan, thể hiện ở 3 nội dung chính:
Thứ nhất, thừa nhận tinh thần tuyệt đối tối cao Brahman (Phạn thiên,
Thần Ngã).
Thứ hai, thừa nhận linh hồn bất tử Atman, do Brahman sinh ra và là
biểu hiện của nó.
Thứ ba, thừa nhận luật nhân quả và thuyết luân hồi - nghiệp báo.
2. Tư tưởng của hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata
a. Sử thi Ramayana
14
Bộ sử thi này kể về việc hoàng tử Rama cùng người em cùng cha khác
mẹ, tướng khỉ Hanuman chiến đấu cứu người vợ yêu quý, sinh đẹp là nàng
Sita. Nhưng sau đó long nghi kị, ghen tuông đã giết chết nàng Sita khi đang
mang trong bụng đứa con của Rama.
Tư tưởng chủ yếu trong Ramayana là triết lí đạo đức – nhân sinh về
cái thiện, cái ác, đức hy sinh, lòng quả cảm, bổn phận tự nhiên và những
mâu thuẫn trong mỗi người giữa cái cao thượng và thấp hèn.
Bộ sử thi này còn chứa đựng những yếu tố duy vật tự phát như không
thừa nhận linh hồn bất tử, cho rằng con người ta sinh ra từ đất và khi chết đi
lại trở về với đất; tin vào cảm giác, chỉ những gì được cảm giác chứng thực
thì mới đáng tin cậy.
b. Sử thi Mahabharata
Bộ sử thi này kể về câu chuyện cuộc chiến kéo dài 18 ngày đêm giữa
5 hoàng tử dòng họ Pandava với 100 anh em dòng họ Kaurava. Họ đều là
than tộc, con cháu của Bharata, chỉ vì tranh giành đất đại mà chem. giết lẫn
nhau. Câu chuyện phản ánh quá trình hình thành các quốc gia chiếm hữu nô
lệ ở Ấn Độ cổ đại. Trong sử thi có lồng ghép những sự tích thần linh, ẩn dụ
triết học, phương châm sử thế…trong đó có phần lắp ghép triết học quan
trọng nhất là Bhagavad-Gita (Chí tôn ca).
Đây là lời khuyên của người đánh xe Krishna, hiện thân của thần
Vishnu, mach bảo cho dũng sĩ Arjuna trong đêm trước trận chiến, thuyết giải
về lẽ trời, bổn phận… Ở đó thừa nhận linh hồn là bất tử, thế giới vạn vật chỉ
là ảo ảnh phù du, Tinh thần tuyệt đối tối cao mới là bản thể đích thực, cho
nên con người phải hành động theo bổn phận (Dharma) một cách nhiệt
thành, vô tư, dốc sức chime nghiệm nội tâm mới tìm ra chân bản, có lòng tin
thờ phụng đấng tối cao mới được siêu thoát (đây là cơ sở của đạo Hinđu).
15
III. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜi KỲ HẬU VEDA
1. Trường phái Samkhya
Phái Samkhya sơ kỳ co khuynh hướng duy vật. Phái này cho rằng mọi
cái đều xảy ra theo nguyên nhân của mình. Nếu thế giới là vật chất thì
nguyên nhân của nó cũng là vật chất. Dạng vật chất đầu tiên là prariti. Nó là
thể thống nhất của ba yếu tố (guna): Satta(nhẹ, sáng, tươi, vui), Rajas(động,
kích thích), Tamas(nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng
thì Prariti là dạng vật chất tinh tế, không thể tri giác được. Khi sự cân bằng
bị phá vỡ thì vật chất bị biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng nhờ đó thế
giới được tạo ra.
Phái Samkhya hậu kỳ chuyển sang lập trường nhị nguyên, thừa nhận
rằng: ngoài Prariti thì cần phải có Purusa truyền sinh khí vào mới sinh ra
được vạn vật.
2. Trường phái Mimansa
kinh điển của trường phái này là Mimansa – sutra do nhà hiền triết
Jaimini viết. Phái Mimansa sơ kỳ có xu hướng vô thần, không thừa nhận
thần linh. Họ cho rằng sự tồn tại của thần là không có chứng cứ vì không thể
tri giác được thần. Không tin vào thần linh, nhưng những người thuộc
trường phái này lại tin vào sức mạnh của Vêda, họ cho rằng các nghi lễ trong
Vêda tự có sức mạnh vật chất chứ không phải do thần linh đem lại. Phái
Mimansa hậu kỳ lại chuyển sang lập trường hữu thần.
3. Trường phái Vedalta
Kinh điển của trường phái này là vedalta - sutra do Badarayana viết.
Phái này muốn hệ thống hoá lại tư tưởng của Upanishad - bộ kinh cuối cùng
trong Vêda, nên Vedalta có nghĩa là “ kết thúc của Vêda”. Phái Vedalta sơ
kỳ mang lập trường nhất nguyên duy tâm. Phái này cho rằng: Tồn tại là ý
thức thuần tuý, là sự thống nhất tuyệt đối giữa Brahman (linh hồn thế giới)
16
với Atman (linh hồn cá thể); thế giới vật chất là ảo giả, không thực do vô
minh sinh ra. Phái Vedalta hậu kỳ có quan điểm duy tâm khách quan, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của cả Brahman lẫn Atman, trong đó Atman là
bộ phận của Brahman.
4. Trường phái Yoga
Tư tưởng của phái Yoga là sự kết hợp giữa tư tưởng của Samkhya với
thần, nhưng thần của họ không phải là lực lượng sáng tạo ra thế giới, mà chỉ
là sự siêu thoát của con người. Phái này đưa ra một hệ thống các phương
pháp tu luyện mà về sau được nhiều phái khác vận dụng (luyện Yoga).
5. Trường phái Nyaya - Vaisesika
Lúc đầu hai phái này độc lập nhưng có nhiều điểm tương đồng, về sau
sáp nhập làm một. Trường phái này có hai đóng góp quan trọng là nguyên tử
luận và lôgic học.
Nguyên tử luận: Theo thuyết này thì thế giới là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng tất cả đều được tạo nên từ
bốn dạng vật chất đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí; các dạng vật chất
này lại được tạo nên từ các nguyên tử (Anu). Nguyên tử là những hạt vật
chất bất biến, vĩnh viễn, khác nhau về khối lượng, hình dáng và tồn tại trong
không gian và thời gian. Ngoài nguyên tử còn có vô số những linh hồn cá
thể (Ya) mà đặc tính của chúng là ước vọng, ý chí, buồn vui, giận hờn...Để
điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử hay giữa nguyên tử và linh hồn cần
phải có một lực lượng thứ ba là thần Isvara.
Lôgic học: Phái này thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng
nhận thức; đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm; coi thức tiễn (kinh
nghiệm) là tiêu chuẩn của chân lý - “phù hợp thì thắng”. Họ đưa ra phép ngũ
đoạn luận - phép suy luận gồm năm phán đoán: luận đề, nguyên nhân, minh
hoạ, suy đoán, kết luận. Ví dụ: Đồi có lửa cháy vì đồi bốc khói mà mọi cái
17
có khói thì đều có lửa chẳng hạn như bếp. Đồi có khói thì không thể không
có lửa. Suy ra đồi phải có lửa cháy.
6. Trường phái Jaina
Người sáng lập ra trường phái là nhà hiền triết Vardhamana hay còn
gọi là Maharvira(600 - 527 tcn).
Trường phái này theo chủ nghĩa tương đối mà theo đó thì tồn tại vừa
bất biến, vừa biến đổi. Vật chất là cái vĩnh hằng, bất biến, trong khi các sự
vật vật chất thì thường xuyên biến đổi. Ví như đất sét thì không thay đổi,
nhưng những cái bình gốm tạo nên từ chúng thì thường xuyên thay đổi. Vật
chất được tạo nên từ các nguyên tử vô cùng nhỏ bé, không thể phân chia, tồn
tại vĩnh viễn(Atgiva). Ngoài nguyên tử còn có vô số các linh hồn bất
tử(Giva). Linh hồn là toàn năng có thể thâm nhập vào mọi cái và có thể hiểu
biết được mọi thứ, nhưng do bị hạn chế bởi thể xác nên không thể siêu thoát.
Muốn siêu thoát con người phải tu luyện theo chủ nghĩa khổ hạnh. Đạo Jaina
về sau được chia thành hai phái là phái “loã hình”- không mặc quần áo và
phái “bạch y”- mặc đồ trắng.
7. Trường phái Lokayata
Phái Lokayata không tồn tại như một trường phái độc lập, không có
kinh điển riêng, mà chỉ là một khynh hướng tư tưởng duy vật tự phát chống
đối lại Vêda và các tôn giáo, nên trong Vêda nó được coi là tư tưởng của quỷ
dữ.
Phái này cho rằng mọi cái đều được tạo nên từ bốn yếu tố vật chất đầu
tiên là đất, nước, lửa và không khí. Tính đa dạng của vạn vật là do cách thức
kết hợp khác nhau mà nên. Con người cũng được tạo nên từ bốn yếu tố trên,
nên không có linh hồn bất tử. Họ ví cơ thể tạo ra ý thức cũng giống như từ
gạo nấu ra rượu, nhưng rượu khác gạo ở chỗ nó có chất say. Từ quan điểm
duy vật trên những người thuộc phái Lokayta kêu gọi phải sống hết mình,
18
hưởng lac: “hãy ăn đi, hãy uống đi cho dù ngày mai sẽ chết” bởi lẽ “kẻ điên
khùng cũng như nhà hiền triết, chết đi rồi thân nát ra thành tro bụi, sẽ tan đi
hết chẳng để lại gì”.
8. Trường phái Phật giáo “Buddha”
Người sáng lập ra đạo Phật là Siddharta (Tất Đạt Đa), về sau được
gọi là Sakyamuni (Phật Thích ca mầu ni). Ông sống vào những năm (563 -
483 Tr.CN).
a. Quan niệm của Đạo Phật về thế giới
Quan niệm về thế giới của đạo Phật được thể hiện bằng bốn tư tưởng
chính là:
+ “Vô tạo giả”: Theo đạo Phật thì mọi cái xảy ra đều có nguyên nhân
của mình, cho nên không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả
cuối cùng. Do đó đạo Phật không thừa nhận lực lượng sáng tạo thế giới,
không thừa nhận thần thánh. Đây là một tôn giáo vô thần.
+ “Vô ngã”: Mọi cái trong thế giới đều là sự giả hợp của các yếu tố
do nhân duyên hợp nhau mà thành. Ngay cả con người cũng do “ngũ uẩn”
hợp lại mà nên. “ngũ uẩn” (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) hội lại thì có ta, tan
ra thì không còn ta, cho nên không có cái tôi vĩnh viễn. Thế giới “vạn pháp”
và đời người chỉ là ảo giả, do vô minh mà thành ra “có”, còn bản chất của nó
là “không”.
+ “Vô thường”: Không có một cái gì là trường tồn, bất biến. Tất cả
đều biến đổi trong một vòng khâu vô tận, không ngừng, không nghỉ. Sinh
vật thì biến đổi trong vòng khâu: sinh - trụ - dị - diệt. Vật vô sinh thì biến
đổi theo chu trình: thành- trụ - hoại- không.
+ “Nhân quả tương tục”: Mọi cái xảy ra đều phải có nguyên nhân,
nguyên nhân nào thì kết quả ấy “trồng dưa đắc dưa, trồng đậu đắc đậu”.
Nhân nhờ có duyên mới thành ra quả.
19
b. Triết lý nhân sinh của Đạo Phật
Triết lý nhân sinh của đạo Phật tập trung vào vấn đề giải thoát đời
người ra khỏi vòng luân hồi - nghiệp báo. Theo đạo Phật đời người cũng
chịu sự chi phối bởi luật nhân quả, theo đó thì tổng hợp tất cả các hành vi
của một kiếp người sẽ tạo ra nghiệp chướng quy định sự luân hồi, tức là chết
đi ở kiếp này để rồi lại phải sinh ra ở kiếp khác, do đó sẽ vĩnh viễn khổ đau.
Do đó phải tìm cách để siêu thoát về cõi Niết bàn. Toàn bộ triết lý này được
thể hiện bằng thuyết “tứ diệu đế”, tức là bốn chân lý lớn.
+ “ Khổ đế”: Đạo Phật cho rằng đời là một “bể khổ”. Khổ đế gồm
“bát khổ”- Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng
hội khổ, Sở cầu bất đắc khổ, Ngũ thụ uẩn khổ.
+ “Nhân đế” hay “tập đế”: Nỗi khổ của cuộc đời có nguyên nhân của
nó, gồm “Thập nhị nhân duyên”- Vô minh, Duyên hành, Duyên thức, Duyên
danh sắc, Duyên lục nhập, Duyên xúc, Duyên thụ, Duyên ái, Duyên thủ,
Duyên hữu, Duyên sinh, Duyên lão tử.
+ “Diệt đế”: Đạo Phật cho rằng có thể diệt khổ để đạt đến trạng thái
“Niết bàn”, tức là trạng thái tịch diệt, tĩnh lặng, trống rỗng, minh sáng,
không sinh, không diệt.
+ “Đạo đế”: Đạo Phật chỉ ra tám con đường diệt khổ gọi là “bát
chính đạo”, gồm: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp,
Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.
Tám con đường trên có thể tóm lại trong ba con đường gọi là “Tam
học”: Giới, Định, Tuệ; được dùng để đối lại ba nguyên nhân chính gây khổ
là “Tam độc”: Tham, Sân, Si.
Sau khi xuất hiện, đạo Phật phát triển nhanh chóng, phân chia ra thành
nhiều chi phái khác nhau. Kinh điển đạo Phật được gọi là kinh Tam tạng. Từ
thế kỷ thứ IX SCN đạo Phật bắt đầu suy tàn ở Ấn Độ và đến cuối thế kỷ thứ
20
XII thì hoàn toàn sụp đổ dưới sự tấn công của đạo Hồi, được du nhập từ Ả
Rập vào. Trước khi bị diệt vong ở Ấn Độ, đạo Phật đã kịp lan truyền sang
các nước khác: lên phía Bắc với phái Bắc tông ( Phật giáo Đại Thừa); xuống
phía Nam với phái Nam tông ( Phật giáo Tiểu Thừa). Ngày nay đạo Phật là
một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới với hàng trăm triệu tín đồ.
IV. KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh sớm của nhân loại.
Triết học Ấn Độ cổ đại có truyền thống phát triển lâu đời với rất nhiều
trường phái triết học tôn giáo. Thông qua những trường phái này diễn ra
cuộc đấu tranh giữa các xu hướng như duy vật và duy tâm, tôn giáo và vô
thần, lạc quan và bi quan… Các trường phái này vừa cạnh tranh lẫn nhau,
vừa kế tục nhau, làm hình thành nhiều phạm trù triết học – tôn giáo có tính
đặc trưng như bản thể không, nhân quả, giải thoát…
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều vấn đề
về bản thể luận, nhận thức luận, tâm lý, đạo đức, tâm linh… Cho nên nền
triết học này có nhiều đóng gớp quan trọng về các vấn đề tâm lý học, logic
học, triết lý nhân sinh…
Triết học Ấn Độ cổ đại đã lan truyền và có những ảnh hưởng sâu sắc
trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP
1. Kinh Vêda và tư tưởng chủ yếu của Vêda?
2. Sự phân chia trường phái và khái quát về xu hướng tư tưởng của
các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại?
3. Đạo Phật và nội dung tư tưởng cơ bản của Đạo Phật?
21
CHƯƠNG III. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của
triết học Trung Quốc cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết
học và nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – chính trị Trung
Quốc cổ, trung đại.
Thời lượng: 9 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời triết học Trung Quốc cổ đại
Về địa lý: Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn nằm ở Đông-
Bắc châu Á, có hai miền khác biệt. Miền Bắc có lưu vực sông Hoàng Hà,
khí hậu lạnh lẽo, đất đai khô cằn, cây cối thưa thớt, ít sản vật; phía Nam có
lưu vực sông Dương Tử, khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ, nhiều sản vật.
Về kinh tế - xã hội: Thời cổ đại ở Trung Quốc được bắt đầu từ triều
đại nhà Hạ ( TK XXI Tr.CN - TK XVII Tr.CN); kế đến là triều đại nhà
Thương hay là Ân - Thương( TK XVII - TK XI Tr.CN); cuối cùng là nhà
Chu (TK XI- TK III Tr.CN). Nhà Chu gồm hai giai đoạn là Tây Chu(TK XI
- TK VIII Tr.CN) và Đông Chu(TK VIII - TK III Tr.CN).
Thời Đông Chu, hay còn gọi là thời Xuân thu - Chiến quốc, là thời kỳ
hình thành và phát triển các trường phái triết học. Đây là thời kỳ quá độ từ
chế độ Chiếm hữu nô lệ lên chế độ Phong kiến ở Trung Quốc. Thời kỳ này
có rất nhiều biến động chính trị, chiến tranh xảy ra liên miên, các chư hầu
nổi lên tranh giành lẫn nhau và lấn át nhà Chu làm cho thể chế nhà Chu dần
dần suy tàn. Nền kinh tề nông nghiệp phát triển mạnh mẽ: đã biết dùng gia
súc để kéo cày, công cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi, đã biết làm thuỷ lợi
22
một cách hệ thống. Ở thời Chiến Quốc chế độ mua bán đất đai xuất hiện,
ruộng đất đần dần tập trung trong tay một số người, họ tiến hành phát canh
thu tô làm nảy nở quan hệ sản xuất phong kiến. Năm 221 Tr.CN nhà Tần
tiêu diệt nhà Chu để thiét lập nên một quốc gia phong kiến tập quyền ở
Trung Quốc, đất nước chuyển sang thời trung đại.
Về văn hoá, khoa học: Trung Quốc cổ đại có một nền văn hoá phát
triển rực rỡ. Thời Xuân thu – Chiến quốc được coi là thời kỳ “bách gia chư
tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Thời
kỳ này nổi lên khoảng mười trường phái triết học lớn nhỏ khác nhau đua
tranh với nhau: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh
gia, Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia, Tiểu Thuyết gia. Các tri thức khoa
học cũng hình thành và phát triển mạnh như: Thiên văn học, Hoá học, Toán
học, Y học...
2. Đặc điểm triết học Trung Quốc cổ đại
- Triết học Trung Quốc cổ, trung đại có tính nhân văn sâu sắc, chủ yếu
xoay quanh các vấn đề về con người, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề về
tự nhiên.
- Triết học gắn liền với các vấn đề chính trị, cho nên mồi trường phái
triết học thực chất là một học thuyết chính trị - xã hội - đạo đức.
- Triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa xã hội và tự nhiên,
sự hoà đồng giữa con người và thế giới.
- Tư duy triết học còn mang tình trực quan, thiếu tính lôgíc chặt chẽ,
tản mạn, chưa được luận giải và chứng minh một cách hệ thống.
23
II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ ÂN – THƯƠNG VÀ TÂY CHU
Ở thời kỳ này đã xuất hiện cuộc đấu tranh giữa hai xu hường là thế
giới quan duy tâm, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, vô thần chất phác.
Giới chủ nô quý tộc cầm quyền tuyên truyền thế giới quan duy tâm,
tôn giáo. Họ cho rằng mọi sự đều do cí trời và quỷ thần chi phối, chính
quyền là do trời ban, nghèo hèn hay sang giàu là do mệnh nên khuyên người
ta chấp nhận mệnh mà nghe theo bọn cầm quyền.
Đối lập với quan điểm này là những quan niệm duy vật, vô thần tiến
bộ. Họ tin rằng con người có thể tự quyết định vận mệnh của mình, họ tìm
cách lí giải các hiện tượng tự nhiên từ chính tự nhiên. Tang Văn Trọng cho
rằng chỉ cần người ta chăm làm và tiết kiệm tiền của thì sẽ đề phòng được
thiên tai, dịch bệnh. Sĩ Bá cho rằng dựa vào quỷ thần để giải thích biện hộ
cho hành vi của mình là tội ác lớn nhất. Tử Sản cho rằng đạo trời thì xa, đạo
người thì gần nên bàn về đạo trời là ba hoa, sáo rỗng. Bá Văn Dương giải
thích hiện tượng địa trấn năm 780 Tr.Cn theo quan điểm âm-dương. Tác
phẩm nổi tiếng thể hiện lập trường duy vật, vô thần và biện chứng chất phác
thời kỳ này là Kinh Dịch.
III. TRIẾT HỌC THỜi KỲ XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
1. Âm - Dương gia
Phái Âm - Dương do Châu Diễn sáng lập vào khoảng TK III Tr.CN,
trên cơ sở thống nhất hai học thuyết: Âm - Dương và Ngũ hành với nhau.
Thuyết Âm - Dương: Dương nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời. Âm là
thiếu ánh sáng mặt trời. Theo nghĩa rộng thì Âm và Dương được hiểu là
những lực lượng đối lập nhau nhưng lại quy định, ràng buộc nhau, nương
tựa vào nhau, trong cái này đã có cái kia và ngược lại như: sáng và tối, trời
và đất, nóng và lạnh, đực và cái...Sự tương tác giữa hai lực Âm và Dương
24
sinh ra thế giới vạn vật. Trong Kinh Dịch có ghi rằng từ Thái cực (cân bằng,
thống nhất Âm và Dương) sinh Lưỡng nghi (Âm và Dương), từ Lưỡng nghi
sinh Tứ tượng(Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm), từ Tứ
tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), từ Bát
quái sinh vạn vật. Âm và Dương mà hoà hợp, đạt đến đạo trung hoà thì vạn
vật sinh sôi, nảy nở; Âm và Dương mà xung khắc thì vạn vật biến đổi, huỷ
diệt. Như vậy thuyết Âm - Dương lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên nên
nó mang màu sắc duy vật. Nhưng về sau thuyết này được dùng để giải thích
các vấn đề về xã hội, con người, vận mệnh...nên dần dần mang màu sắc duy
tâm thần bí, nhất là khi nó bị giai cấp cầm quyền lợi dụng.
Thuyết Ngũ hành: Ngũ hành được hiểu là năm hoạt động, năm tác
nhân, đó là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Mỗi hành lại có đức riêng của mình:
đức của Hoả là nóng, bốc lên; đức của Thuỷ là ẩm ướt, thấm xuống; đức của
Thổ là cấy và gặt; đức của Mộc là cong và thẳng; đức của Kim là theo và
đổi. Ngũ hành không đứng bên cạnh nhau mà thường xuyên tương tác qua
lại với nhau thông qua hai con đường là Ngũ hành tương sinh ( Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ) và Ngũ
hành tương khắc ( Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim
Khắc Mộc, Mộc khắc Thổ). Sự tương tác giữa các hành sẽ làm cho vạn vật
sinh sôi, nảy nở, biến đổi và huỷ diệt không ngừng. Vốn là một học thuyết
duy vật, lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên, nhưng về sau thuyết Ngũ
hành dần dần chuyển sang lập trường duy tâm khi nó được dùng để giải
thích cho các vấn đề chính trị, xã hội và bị giai cấp cầm quyền lợi dụng.
2. Nho gia
a. Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN)
Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập. Kinh điển của Nho gia
thường được nói đến là Tứ Thư (Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh
25
Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu). Khổng Tử tên thật là
Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Ông viết Kinh Xuân thu, san định các
kinh điển cổ như Dịch, Lễ nhạc… Học trò đời sau biên tập lời Khổng Tử
dạy trước đó, chép thành cuốn Luận ngữ.
* Quan niệm về thế giới: Quan niệm về vũ trụ, về thế giới của Nho gia
chủ yếu xoay quanh ba vấn đề lớn là trời, mệnh và quỷ thần.
- Về trời: Khổng tử có quan niệm dao động về trời. Theo Ông, vạn vật
không ngừng biến đổi, sinh diệt theo đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là
“thiên lý”, được hiểu là sự tương tác giữa hai lực âm và dương, là quy luật tự
nhiên, cho nên trời chỉ là giới tự nhiên, vận hành theo bốn mùa: “trời có nói
gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, trăm vật sinh ra mãi”. Nhưng đạo hay
thiên lý là cái mầu nhiệm, toàn năng, chi phối toàn thể vũ trụ mà ông không
hiểu được, cho nên ông lại ví trời như thần: “có tội với trời thì còn cầu đảo
vào đâu được nữa”.
- Về mệnh trời: Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá
theo những nguyên lý màu nhiệm, sâu kín, không ai cưỡng lại được, và ông
gọi đó là thiên mệnh “sống chết tại mệnh, giàu sang là ý của trời’. Nhưng
ông vẫn khuyên người ta không nên nhắm mắt theo mệnh mà mỗi người
phải tự nỗ lực làm việc mới mong có mệnh tốt.
- Về quỷ thần: Khổng Tử tin là có quỷ thần. Theo ông quỷ thần do khí
thiêng tạo thành, nó có ở mọi nơi và chứng kiến mọi việc con người làm.
Nhưng ông lại cho rằng quỷ thần không can thiệp vào công việc của con
người, cho nên khuyên người ta kính thần mà không nên gần gũi quỷ thần.
* Quan niệm về nhận thức: Nhận thức luận của Khổng tử chủ yếu
hướng vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề tự nhiên.
Ông đưa ra rất nhiều phạm trù đạo đức quan trọng như nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín, dũng, cung, khoan, mẫn, huệ, trung, hiếu… Ông cho rằng năng lực nhận
26
thức của con người là thiên bẩm, sinh ra đã có sự phân định sẵn: có thượng
trí, có trung nhân, có hạ ngu.
Ông rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con người. Ông cho rằng việc
học có ba mục đích: Học để hiểu biết, học để hoàn thiện nhân cách, học để
làm việc. Ông chủ trương “hữu giáo vô loại”, giáo dục không phân biệt đẳng
cấp, bất cứ ai, hễ là loại trung nhân đều có thể dạy cho. Quy trình dạy học là
“tiên học lễ, hậu học văn”. Học văn là học lục nghệ: thi, thư, xạ, ngự, dịch,
nhạc.
* Tư tưởng đạo đức - nhân sinh:
- Vấn đề con người: Triết học của Khổng Tử là nền triết ọc nhân bản,
chủ yếu xoay xung quanh các vấn đề về con người, tính người, đạo đức con
người...
+ Về tính người: Không tử nói "tính tương cận, tập tương viễn", tức là
tính của con người khi sinh ra vốn là giống nhau, gần nhau, nhưng do tập
nhiễm mà thành ra xa nha, khác nhau, kẻ hiền người ác. Từ đó ông chủ
trương giáo hoá để đưa người ta trở về bản tính gần nhau ban đầu. Như vậy
Kổnh Tử coi tính của con người vốn là thiện.
+ Về các hạng người: Trong xã hội con người có sự phân biệt về nhân
cách và địa vị thành ba hạng là quân tử, kẻ sĩ và tiểu nhân. Quân tử là những
người hoàn thiện về nhân cách (theo Khổng Tử, người quâ tử phải có 9 điều:
Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, khi nghe phải nghe cho rõ ràng, sắc mặt
phải ôn hoà, tướng mạo phải trang nghiêm, nói năng phải trung thực, làm
việc phải trọng sự kính nể, điều gì còn nghi hoặc phải hỏi han, khi tức giận
phải nghĩ đến hậu hoạ, khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa). Kẻ sĩ là những
người học hành đỗ đạt để ra làm quan (Theo Mạnh Tử kẻ sĩ phải: "phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" - giàu sang không
27
quyến dũ, khéo khó khong đổi thay, uy vũ không khuất phục). Tiểu nhân là
những kẻ không biết lễ nghĩa, chỉ chạy theo điều lợi.
- Vấn đề đạo đức: Đạo được hiểu là con đường, quy luật tiến hoá của
vạn vật. Đạo người được hiểu là con đường đúng đắn phải theo để xây dựng
những mối quan hệ xã hội lành mạnh. Đức là tính chất của vạn vật, chỉ
những đức tính tốt đẹp mà con người cần phải có. Thuận theo Đạo thì mới
có Đức sáng. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử được khái quát trong luân
thường đạo lý. Thường gồm các đức cơ bản: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,
cung, khoan, mẫn, huệ. Luân là các quan hệ xã hội - đạo đức cơ bản gồm:
Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè - bạn.
+Nhân là “ái nhân”, “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân”, “kỷ dục lập nhi
lập thân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Lễ là tế lễ; là phong tục tập quán; là
chuẩn mực đạo đức; là quy phạm pháp luật. Nghĩa là làm theo lẽ phải, không
mưu lợi cho riêng mình; là việc ta phải làm, là mệnh lệnh luân lý tối cao cho
nên nghĩa đối lập với lợi. Trí là soi xét thấu đáo vạn vật, hiểu biết điều hay lẽ
phải. Tín là giữ lòng tin với mọi người...
+ Ngũ luân: Kinh lễ đã nêu 11 đức liên quan đến ngũ luân: vua nhân,
tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng hoà, vợ thuận, trưởng có
ân, ấu ngoan, bằng hữu giữ đức tín.
* Tư tưởng chính trị - xã hội: Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ
có nhiều biến động chính trị, danh thực tranh nhau, đạo lý lễ nghĩa bị suy đồi
cho nên Nho gia đã đề xuất nhiều chính sách mang tính chất cải lương nhằm
cải tạo xã hội đương thời.
- Chính danh: Danh không chỉ là tên gọi mà trước hết là công dụng
của vật, chức năng chức phận của mỗi người. Danh mà không chính thì lời
nói không thuận, lời nói không thuận thì việc làm không đúng, hình phạt
không trúng, lễ nghĩa bị bỏ...Cho nên cần phải chính danh. Chính danh là gọi
28
tên sự vật đúng tên của nó, sử dụng sự vật đúng với công dụng của nó, làm
việc đúng chức năng chức phận của mình. Chính danh là ngôn phải chính và
thân cũng phải chính, cho nên lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Đức trị: Khổng Tử đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là
gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên
nước phải lấy dân làm gốc. Vì vậy Khổng Tử chủ trương lấy lễ nghĩa thay
thế cho pháp luật, lấy giáo hoá thay cho hình phạt cho nên ông đưa ra đường
lối đức trị, nhân trị hay lễ trị. Đường lói đức trị của Khổng Tử bao gồm các
yếu tố trị nức như:
+ Giáo hoá dân, dạy cho dân biết lễ nghĩa.
+ Dưỡng dân, nuôi dân cho no đủ, thực hiện chế độ phân phối quân
bình.
+ Nêu gương đạo đức để dân tin, dân theo. Thực hện chính sách
"thượng hiền".
- Xã hội lý tưởng: Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng
cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương
trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính
già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền
tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến tranh bạo lực
và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ thượng hiền.
b. Mạnh Tử (372 - 289 Tr.Cn)
Mạnh Tử tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước Châu. Ông vốn là
học trò của Tử Tư – cháu nội của Khổng Tử; Tử Tư là học trò của Tăng Sâm
- một trong số các học trò cũ của Khổng Tử. Mạnh Tử đã phát triển học
thuyết của Khổng Tử theo xu hướng duy tâm.
* Bản thể luận và nhận thức luận
29
- Bản thể luận: Mạnh Tử kế thừa yếu tố duy tâm trong học thuyết của
Khổng Tử, loại bỏ những yếu tố duy vật tự phát của thuyết này, từ đó biến
nó thành một thuyết duy tâm thần bí.
+ Cung giống như Khổng Tử, Mạnh Tử hoàn toàn tin vào mệnh trời
và khuyên người ta phải phục tùng tuyệt đối mệnh trời. Ông cho rằng không
có gì xảy ra mà không theo mệnh, ta nên tuỳ thuận mà chấp nhận lấy cái
mệnh chính đáng ấy.
+ Mạnh Tử coi bản chất của vũ trụ là tâm linh, là vũ trụ đạo lí. Xuất
phát từ quan điểm “thiên nhân cảm ứng” Ông cho rằng đạo trời đồng nhất
với đạo lí của con người, con người là một tiểu vũ trụ bao hàm toàn bộ đại
vũ trụ, cho nên “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”, vì thế chỉ cần hiểu được
mình là hiểu được trời.
- Nhận thức luận:
+ Nhận thức luận của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm tiên nghiệm.
Ông cho rằng năng lực nhận thức của con người là tiên thiên, trời phú cho
nên người ta biết được là nhờ vào tâm, đó là cái biết mà sinh ra đã biết, nên
gọi là “sinh tri” (chẳng hạn biết về lễ, nghĩa, trí tín…; tâm biết được là nhờ
vào “lương năng” - tức là không học mà biết và nhờ vào ‘lương tri” - tức là
không nghĩ mà biết. Như vậy Mạnh Tử không tin vào cảm giác kinh nghiệm
mà chỉ tin vào lí tính, tức là chỉ tin vào “tâm”, cho rằng phải nhờ “tâm” mới
biết được bản tính của mình và vạn vật.
+ Vì vạn vật đều có đầy đủ trong ta cho nên con người chỉ cần tận tâm
suy xét ở mình là có thể biết được trời đất, vạn vật “nếu biết được bản tính
của mình là biết được trời rồi đó”. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả
năng nhận thức bằng tâm. “Chỉ những bậc chí thành trong thiên hạ mới biết
được cái tính của mình… Biết được tính của mình thì biết được tính của con
người… Biết được tính của con người thì biết được tính của vạn vật… Biết
30
được tính của vạn vật thì có thể giúp vào việc sinh hoá của trời đất… có thể
cung trời đất tham dự mọi việc” (Trung dung).
* Triết lý đạo đức – nhân sinh
- Về con người và đạo đức con người:
+Mạnh Tử có quan niệm duy tâm về con người. Ông cho rằng con
người gồm có hai phần là tâm và khí. Khí lưu hành trong vũ trụ, ngưnmg tụ
lại thành hình nên mới có vạn vật và con người; khí lưu hành trong cơ thể
nên con người mới có sinh trưởng. Tuy nhiên khí không tách rời tâm, tâm là
“vị nguyên soái điều khiển khí”. Như vậy tâm quyết định khí, tinh thần
quyết định vật chất.
+Tâm và khí phải thống nhất với nhau nên cùng với “tồn tâm dưỡng
tính” còn phải “dưỡng khí”. Muốn vậy phải kết hợp việc nghĩa với việc đạo;
phải hiểu đạo lý, theo đạo và tập nghĩa, làm điều thiện; phải giáo dục đạo lý
cho mọi người; phải theo chuẩn mực đạo lí của thánh hiền, theo đó người
học phải kiên trì, cầu tiến và người dạy cũng phải luôn sửa mình làm gương.
+ Mạnh Tử quan tâm đến việc xây dựng một mẫu người lí tưởng:
cương trực, cứng rắn, nhân nghĩa: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng
di, uy vũ bất năng khuất” – Giàu sang không quyến dũ, nghèo khó chẳng đổi
thay, uy vũ không khuất phục.
- Về tính người: Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người vốn là
thiện – “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng do tập nhiễm mà thành ra khác
nhau - kẻ thiện, người ác không phải do bản tính mà do tư dục, hoàn cảnh.
Ông chỉ ra ba lí do để chứng minh cho tính thiện của con người:
+ Một là, Tính thiện được biểu hiện bằng tứ đức. Tứ đức được bắt
nguồn từ tứ đoan, đó là: Lòng trắc ẩn - biết thương sót, đó là đầu mối của
nhân; lòng từ nhượng - biết cung kính, đó là đầu mối của lễ; lòng tu ố - biết
thẹn ghét, đó là đầu mối của nghĩa; long thị phi - biết phân biệt phải trái,
31
đúng sai, đó là đầu mối của trí. Ai sinh ra cũng có đủ tứ đoan, nếu biết gìn
giữ, nuôi nấng nó sẽ trở nên thiện, nếu không sẽ thành ác.
+ Hai là, Người ta, ai cũng có đủ các “quan năng” để nhận biết, phân
biệt phải, trái, đúng, sai, tốt, xấu cho nên ai cũng có thể trở thành thánh
nhân.
+ Thứ ba, Tính thiện bắt nguồn từ tâm, tâm là cái trời phú, sinh ra đã
có. Nếu con người biết “tồn tâm dưỡng tính”, giữ cho tâm được trong sáng
thì nên thiện. Nếu để vật dục che lấp thì nên ác.
Như vậy, muốn gìn giữ bản tính thiện của con người thì cần phải giáo
dục đạo lí chứ không phải bằng hình phạt cưỡng bức.
* Tư tưởng chính trị - xã hội
- Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm,
thần bí, bảo vệ cho bọn cầm quyền phản động.
+ Ông tuyên truyền chế độ “thần quyền”, cho rằng chính quyền là do
trời trao cho các bậc anh minh để trị dân, cho nên các bậc vua chúa trị dân là
thể theo chí trời.
+ Ông cho rằng thánh nhân là người quyết định lịch sử, làm thay đổi
thời cuộc; theo chu kỳ cứ 500 năm một lần, do sự vận hành của ngũ hành,
âm dương, lại xuất hiện thánh nhân trị vì thiên hạ.
+ Ông bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội, cho rằng theo
thiên mệnh con người ta ngay từ khi sinh ra đã có sự phân hoá thành hai loại
là lao tâm và lao lực, trong đó lao lực phải nuôi lao tâm, lao tâm thì trị lao
lực. Do đó cần có sự phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự rõ rang.
- Mạnh Tử cũng đề xuất nhiều chính sách thể hiện rõ tinh thần trọng
dân.
+ Ông đưa ra thuyết “nhân chính” trong trị nước, phản đối chiến tranh
thôn tính, đòi hỏi bọn quý tộc phải giảm hình phạt đối với dân. Ông kêu gọi
32
chế độ “bảo dân”, lo cho dân được no đủ, an bình, thực hiện chính sách “tỉnh
điền” để cho dân có sản nghiệp, giảm thuế cho dân, giáo hoá dân…
+ Ông kêu gọi thực hiện chính trị trọng dân, đề cao vai trò, sức mạnh
của dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, tức là dân là cái quý
nhất, sau đó mới đến xã tắc sơn hà, cuối cùng mới là ngôi vua vì rằng có dân
mới có nước, có nước mí có vua. Ông vua nào biết trọng dân, biết lo cho dân
thì mới tồn tại, bằng không sẽ bị phế truất.
Như vậy, trong trị nước Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa, phản
đối bạo lực. Nhân nghĩa đối lập với điều lợi, vì theo ông nếu lấy lợi làm gốc
sẽ làm cho người ta tranh giành lẫn nhau vì thế xã hội sẽ loạn. Huệ vương
nước Lương hỏi Mạnh Tử: “Ngài có điều gì làm lợi cho nước Lương
chăng?”. Mạnh Tử trả lời: “Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi. Chỉ nói đến điều
nhân nghĩa mà thôi. Nếu bậc quốc vương nói rằng: làm thế nào cho lợi nước
ta; quan đại phu nói rằng: làm thế nào cho lợi nhà ta; kẻ sĩ và thứ dân nói
rằng: làm thế nào cho lợi than ta; kẻ trên người dưới ai nấy đều tranh nhau
mối lợi ắt vận nước đã lâm nguy”.
c. Tuân Tử (315 - 230 Tr.Cn)
Tuân Tử tên thật là Huống, tự là khanh, người nước triệu. Ông phát
triển học thuyết của Khổng Tử theo hướng duy vật. Ông chủ trương kết hợp
lễ nghĩa với pháp luật trong việc trị nước. Tư tưởng này của ông về sau được
học trò Hàn Phi kế thừa, phát triển trong đường lối Pháp gia.
* Bản thể luận và nhận thức luận
- Bản thể luận: Tuân Tử phát triển quan điểm duy vật, vô thần tiến bộ
về thế giới. Ông phản đối tư tưởng về thiên mệnh và quỷ thần của Khổng,
Mạnh.
+ Tuân Tử coi trời chỉ là giới tự nhiên, nó vận hành theo quy luật tự
nhiên. Ông chia vũ trụ ra thành ba bộ phận là trời, đất và người, trong đó:
33
“Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị”, mỗi bộ phận này đều
vận hành theo quy luật của riêng mình, cho nên việc trời, việc đất và việc
người không lien quan đến nhau. “Trời vẫn làm theo lẽ thong thường, không
vì vua Nghiêu mà để cho còn, chẳng vì vua Kiệt mà làm cho mất. Lấy sự trị
mà đối phó với đạo ấy thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
“Không phải vì người ta ngại giá rét mà trời bỏ mất mùa đông, chẳng phải
người ta ngại xa xôi mà đất lại rút ngắn”.
+ Tuân Tử cho rằng mọi việc lành, giữ, an, nguy của con người không
phải do mệnh, mà do chính hành vi của con người: “Chăm làm và bớt tiêu
dùng thì trời cũng không làm cho nghèo được. Cái gốc bị bỏ, sự tiêu dung
lại xa xỉ thì trời cũng không làm cho giàu được. Sự dinh dưỡng thiếu thốn,
hành động lại không kịp thời thì trời cũng không làm cho chọn vẹn được.
Trái với đạo trời, trái với tự nhiên mà làm càn, trời cũng không làm cho lành
được”. Tiến xa hơn, Tuân Tử còn cho rằng con người có thể cải tạo được
trời đất. Ông khuyên người ta tích cực làm việc, cải tạo tự nhiên để làm ra
nhiều lúa gạo cho con người.
+ Tuân Tử thể hiện lập trường vô thần tiến bộ trong quan niệm về quỷ
thần. Ông cho rằng quỷ thần không có thật, đó là do sự sợ hãi của con người
tạo nên: “Đi dạo dưới trăng, cúi đầu trông thấy bóng của mình và vạn vật,
lấy làm sợ mà cho là có quỷ thần”. Đối với các hiện tượng tự nhiên như sao
sa, nhật thực, nguyệt thực, động đất… chỉ là sự biến hoá của âm dương, trời
đất, nếu lấy làm lạ thì nên, lấy làm sợ thì không nên. Các hành vi cúng tế,
nghi lễ, phong tục, tập quán… chỉ nên coi là hiện tượng văn hoá để duy trì,
đừng nên lấy đó làm tin.
+ Tuân tử giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lí và khí, tâm và vật.
Ông cho rằng khí là cái cấu thành nên vạn vật, phân biệt sự khác biệt giữa
các vật chất vô sinh, hữu sinh và con người: nước, lửa có khí nhưng vô sinh
34
mệnh. Cây cỏ có sinh mệnh nhưng vô tri. Loài cầm thú có tri nhưng vô lễ
nghĩa. Con người có đủ cả khí, sinh mệnh, tri giác và lễ nghĩa nên con người
là cái quý nhất. Ở con người khí có trước và quyết định lí, vật có trước và
quyết định tâm.
- Nhận thức luận: Tuân Tử thể hiện lập trường duy vật về nhận thức,
cho rằng nhận thức là nhận thức về thế giới vạn vật, rằng con người có thể
nhận thức được các quy luật của thế giới.
+ Ông chia nhận thức ra thành 2 giai đoạn là cảm tính “thiên quan” và
lí tính “tâm”. Nhận thức cảm tính dựa vào các thiên quan chỉ đem lại cho
con người hiểu biết cái bề ngoài. Chỉ có tâm mới đem lại cho con người sự
hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhưng hoạt động của tâm không thể thiếu hoạt
động của các quan năng mà phải bắt nguồn từ kinh nghiệm. hai giai đoạn
này còn bổ sung cho nhau: tâm phải lấy cảm giác làm cơ sở, cảm giác phải
lấy tâm để uốn nắn. Như vậy ông đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
hai giai đoạn nhận thức.
+ Tuân tử còn giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa khái
niệm và sự vật, giữa danh và thực, giữa cái chung và cái riêng. Khái niệm là
phản ánh của sự vật, được rút ra từ các sự vật qua phân tích, so sánh, phân
loại. Danh là để trỏ thực nên phải phù hợp với thực: “Danh là để trỏ thực,
trên là tỏ rõ sang hèn, dưới là để phân biệt cái giống nhau và cái khác nhau”.
Có danh chung để biểu thị sự giống nhau, có danh riêng để biểu thị sự dị
biệt. Danh là do con người quy ước với nhau mà thành nên để tránh loạn
danh cần có sự quy định chặt chẽ, phải dùng pháp luật, quyền thế mà định
danh, phận cho rõ ràng. Cái chung, cái toàn bộ tồn tại thông qua cái riêng,
cái cá biệt. Cái chung bao hàm đại khái cái riêng. Cái chung và cái riêng tuy
khác nhau nhưng không tách rời nhau.
* Tư tưởng chính trị - đạo đức
35
- Về tính người: Tuân Tử coi bản tính của con người là ác, là cá nhân,
ích kỷ, vì mình trước hết: “nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu để cho người ta
hành động theo bản tính tự nhiên, thoả mãn những dục vọng sinh lí của mình
thì sẽ gây nên nạn trộm cướp, vô luân. Cho nên phải kết hợp giáo hoá và
hình phạt để kìm chế tính ác: “Sinh ra khuôn uốn là vì có cái cây cong queo,
bày ra dây mực là vì có sự không thẳng, lập quân thượng, sính lễ nghĩa là vì
người có tính ác”. Tính ác không phải là vính viễn mà vẫn có thể sửa được
nhờ vào giáo dục, rèn luyện và hình phạt tạo thành thoi quen làm thiện.
- Về trị nước: Tuân Tử chủ trương kết hợp đức trị với pháp trị, giáo
hoá với hình phạt trong việc trị nước. Ông cho rằng con người khác với cầm
thú vì có tổ chức xã hội và có cuộc sống tập thể. Để duy trì điều đó và kiềm
chế tính ác của con người tất yếu phải có lễ nghĩa và pháp luật, có nhà nước
đứng ra để điều hành. Ông thừa nhận chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội
xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện sống, thói quen (chứ không phải khác
nhau về quyền sở hữu tư liệu sản xuất).
3. Đạo gia
Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (TK VI Tr.CN) với
cuốn sách Đạo đức kinh. Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là
Trang Tử (396 - 286 Tr.CN) với cuốn Nam hoa kinh. Ngoài ra còn có
Đương Chu (395 – 335 Tr.Cn) chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh.
a. Lão Tử (cuối thời Xuân thu)
Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Đương hay còn gọi là Lão Đam.
Ông là người nước Sở, vốn làm quan giữ sách cho nhà Chu, về sau từ quan
về ở ẩn trong núi. Ông viết cuốn “Đạo đức kinh”.
* Bản thể luận
- Học thuyết về Đạo
36
+ Nền tảng của toàn bộ triết học Lão Tử là học thuyết về Đạo. Đạo là
bản thể, vừa là gốc, bản chất, vừa là quy luật chi phối vạn vật. Nó là một cái
trừu tượng, hỗn độn, không rõ ràng, không đồng nhất với những cái đang tồn
tại trong tự nhiên. “Có vật gì trong sự hỗn độn, có trước cả trời đất, vừa
trống không vừa lặng yên đứng một mình không đổi, lưu hành khắp trốn
không mỏi, có thể là mẹ của thiên hạ. Ta không biết nó tên gì nên mới đặt
tên cho là Đạo và gượng cho là lớn” (Đạo đức kinh).
+ Đạo là sự thống nhất giữa “Vô” và “Hữu”, “Vô” là thể của Đạo,
“Hữu” là dụng của Đạo. “Vô” là vô danh, vô phác, không có tên gọi, không
có hình thể do đó “Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi
thường Danh” (Đạo đức kinh). Đạo còn là “Hữu” vì nó sinh ra vạn vật và
tồn tại ngay trong vật, mỗi vật đều là biểu hiện của Đạo lớn. Tuy nhiên Đạo
không đồng nhất với vạn vật vì vạn vật có hình thể và có tên gọi.
+ Đạo còn là quy luật chi phối vạn vật, không gì thoát ra được nên gọi
là “Đạo pháp tự nhiên”. Trong quan niệm của Lão Tử, Đạo có bản chất vật
chất vì Đạo sinh ra vạn vật hoàn toàn theo lẽ của tự nhiên, không có tư dục,
không có mục đích.
- Tư tưởng biện chứng
+ Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho mọi sự
biến đổi của vạn vật. Sự biến đổi của vạn vật tuân theo 2 quy luật phổ biến là
luật Quân bình và luật Phản phục. Luật Quân bình giữ cho các sự vật biến
đổi theo xu hướng trở về trạng thái cân bằng. Luật Phản phục làm cho sự
biến đổi diễn ra trong một vòng tròn khép kín, lặp đi lặp lại không ngừng.
+ Tư tưởng biện chứng của Lão Tử còn được thể hiện ở việc thừa
nhận tính mâu thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các
mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào
37
nhau, chuyển hoá vào nhau “Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là còn có cái xấu...
hoạ là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náu của hoạ”.
* Nhận thức luận
- Lão Tử có quan điểm bất khả tri về Đạo, cho rằng Đạo không thể
nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thông thường mà phải bằng trực
giác tâm linh.
- Đạo gia coi thường nhận thức cảm tính và trí tuệ thông thường vì
cho rằng chúng chỉ giúp con người nhận thức các hiện tượng, nhưng con
người hiểu càng nhiều về vật thì càng xa với Đạo: “Càng đi xa càng biết ít.
Người quân tử ngồi trong nhà không ra ngoài mà biết được việc thiên hạ,
không nhòm qua khe cửa mà biết được đạo trời”.
* Tư tưởng đạo đức – nhân sinh
- Triết lí vô vi: Nền tảng của tư tưởng chính trị đạo đức của Đạo gia là
triết lý “vô vi”. “Vô vi” có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, cho nên
tất cả những gì là giả tạo, nhân tạo đều phải được bãi bỏ.
- Về đạo đức: Trong cuộc sống, Đạo vô vi đòi hỏi phải tôn trọng bản
tính tự nhiên của người, của vật, không được dùng sức mạnh để chiếm đoạt,
sống hoà đồng với tự nhiên. Các chuỷân mực đạo đức cơ bản là: cần kiệm,
từ ái, không tranh giành.
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
- Vô vi trị:
Trong chính trị, Đạo vô vi đòi hỏi phải từ bỏ những cái trói buộc con
người, do con người tự nghĩ ra như pháp luật, lễ nghĩa, danh lợi...Đạo gia
chủ trương: “vô vi nhi trị”- Nếu trong xã hội mọi người đều không làm gì thì
xã hội tự nó thịnh trị.
- Xã hội lí tưởng: đó là một xã hội nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có
ngựa xe không ngồi, có gươm đao không dùng, bỏ văn tự, người ta trở về
38
thuật thắt nút ghi dấu, hai nước cạnh nhau vẫn nghe thấy gà gáy, chó sủa mà
đến già chết vẫn không qua lại…
b. Đương Chu (khoảng 395 – 335 Tr.Cn).
Đương Chu, tự là Tử Cư, là người nước Vệ. Ông chủ yếu bàn đến các
vấn đề triết lí nhân sinh.
* Bản thể luận
Đương Chu mang quan niệm duy vật không triệt để về thế giới. Ông
cho rằng mọi cái đều xảy ra theo nguyên lí tất yếu, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, không do lực lượng thần thánh hay ma quỷ
chi phối. Mọi cái, theo bản tính tự nhiên, có sinh ắt có diệt, có sống ắt có
chết: “Đời sống vạn vật, con người theo bản tính tự nhiên tự sinh, tự diệt;
than thể tự nó khoẻ mạnh, tự nó bạc nhược”. Tuy nhiên cái nguyên lí tất yếu
là cái mầu nhiệm, khó hiểu nên ông gọi đó là “thiên mệnh”.
* Triết lí nhân sinh
- “Tồn ngã”: Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh
ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình.
Con người có thiên tính “tồn ngã”: “Con người, bản chất giống trời đất, có
đức tính của Ngũ hành, là loài tối linh trong vạn vật. Thân ta không phải của
ta, nhưng đã có chúng rồi thì không thể diệt chúng được”.
- Để tồn ngã thì phải “quí sinh” và “trọng kỉ”.
+ “Quí sinh” là quí mạng sống của mình, nhưng đồng thời phải tôn
trọng sự sống của người và vạn vật cho nên không dung bạo lực để xâm
chiếm, không can thiệp thô bạo vào bản tính tự nhiên của vạn vật và người
khác. Do đó con người phải sống hoà đồng với tự nhiên, coi ta như vật, coi
vật như ta, không phân biệt sống - chết, giàu – nghèo, quí - tiện… Như vậy
quí mạng sống nhưng cũng sãn sang đón nhận cái chết.
39
+ “Trọng kỉ” là phải tìm cách đáp ứng mọi nhu cầu, thị hiếu tự nhiên
của mình. Từ đó Ông đề cao quyền tự do cá nhân, kêu gọi chủ nghĩa khoái
lạc, sống hết mình, nhưng đồng thời không làm phương hại đến người khác.
- “Vị ngã”: là vì mình trước hết. Đây là cốt lõi của triết lí nhân sinh
của Đương Chu.
+ “Vị ngã” là yêu mình trước hết: “Yêu ngươì nước gần hơn người
nước xa, yêu người trong nước hơn người ngoài nước, yêu cha mẹ hơn
người ngoài, yêu mình hơn hết”.
+ “Vị ngã” là sống theo đúng bản tính tự nhiên của mình, không ham
sống, ghét chết; không luỵ vật, không bị danh vọng, tiền tài tri phối; không
bị ràng buộc bởi luân lí, lễ nghĩa cứng nhắc.
+ “Vị ngã” là sống vì mình mà không hại người, không cho ai hay lấy
của ai cái gì: “Đương Chu này, mất một sợi lông chân mà làm lợi cho thiên
hạ cũng không cho, mà có đem cả thiên hạ phụng dưỡng bản thân mình cũng
không nhận”. Cho nên vị ngã không phải là chủ nghĩa cá nhân ích kỉ.
* Tư tưởng chính trị - xã hội
Đương Chu xuất phát từ tư tưởng “vị ngã” mà phản đối mọi đường lối
đức trị, pháp trị vì chúng hạn chế tự do cá nhân, trái với đạo tự nhiên:
“Người ta dung cách thưởng phạt để khuyên ngăn, dung danh vọng và pháp
luật để cấm đoán; người ta canh cánh đua nhau để được cái hư danh một
thời, cầu cạnh hư vinh sau khi chết; cứ nhớ tới cái phải trái mà không dám
cho tai mắt được theo sở thích của mình, làm mất cái lạc thú trước mắt,
không được thoả thuê phóng túng lúc nào cả. Như vậy có khác gì gong cùm
không?”.
Ông phản đối bọn Nho, Mặc chỉ ham sống lâu, ham danh vọng, địa vị,
ham tiền tài nên không được thanh thản, luôn sợ quỉ thần, sợ kẻ có quyền…
Ông kêu gọi trị nước phải bằng đạo vô vi, vị ngã: “Nếu mọi người đều
40
không chịu mất một cái lông chân mình, đều không muốn làm lợi cho thiên
hạ thì thiên hạ tự trị”.
c. Trang Tử (369 – 286 Tr.Cn)
Trang Tử tên thật là Trang Chu, người nước Tống. Ông từng làm quan
Tất viên cho xứ Mông, sau đó từ quan về sống cuộc sống thanh bạch, giản
dị. Ông viết tác phẩm “Nam hoa kinh”.
* Bản thể luận và nhận thức luận
- Học thuyết về Đạo: Kế thừa học thuyết về Đạo của Lão Tử, Trang
Tử đã biến học thuyết này thành duy tâm, thần bí.
+ Nếu như Đạo của Lão Tử là sự thống nhất giữa vô và hữu thì Đạo
của Trang Tử là hư vô: “Trong cái không sinh cái có, cái có không thể lấy
cái có làm cơ sở”.
+ “Đạo sinh ra tinh thần, còn tinh khí mới sinh ra hình thể”, như vậy
đạo là tinh thần, khác với Lão Tử coi đạo là vô thức.
+ Đạo sinh ra vạn vật và tồn tại thong qua vạn vật, cho nên mỗi vật,
dù lớn hay bé, sang hay hèn… đều là biểu hiện của Đạo, nên Đạo tồn tại mọi
nơi.
+ Sinh ra từ Đạo tự nhiên nên vạn vật có bản tính tự nhiên của mình,
chúng biến đổi không ngừng, sinh diệt, sống chết theo lẽ tự nhiên.
- Nhận thức luận: Nhận thức luận của Trang Tử chịu ảnh hưởng bởi tư
tưởng của Lão Tử và Huệ Tử - người thuộc môn phái Danh gia.
+ Giống như Lão Tử, Trang Tử có quan niệm bất khả tri về Đạo. Ông
cho rằng Đạo không thể nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thong
thường: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn là Đạo. Đạo
chẳng có thể thấy được, thấy được không phải là nó nữa. Có thể nào lấy trí
để hiểu cái hình dung của cái không có hình dung được chăng? Vậy thì
không nên đặt tên cho nó”. Nên để hiểu Đạo phải bằng con đường trực giác
41
tâm linh, muốn vậy phải sống hòa đồng với thiên nhiên (câu chuyện “đọc
thánh nhân”).
+ Trong quan niệm về vạn vật Trang tử chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
tương đối của Huệ Thi, phát triển nó thành hoài nghi luận, xóa nhòa danh
giới giữa các vật.
Ông cho rằng sinh ra từ đạo tự nhiên nên mỗi người, mỗi vật đều có
bản tính tự nhiên của mình: Cái là lớn so với vật này lại là bé so với vật
khác, cái là tốt với người này lại là xấu với người khác… “Không gì lớn
bằng sợi long mùa thu mà núi Thái sơn lại là nhỏ. Không ai thọ bằng đứa trẻ
chết yểu mà Bành tổ lại là yểu”.
Vì vạn vật là tương đối nên nhận thức của con người về chúng cũng
chỉ là tương đối. Từ đó Trang Tử cho rằng mọi tri thức đều là chủ quan,
không có chân lí khách quan (Mao Đường và Lệ Cương là những người đẹp
nổi tiếng, nhưng nhìn thấy thì chim bay, cá lặn, thú bỏ chạy, vậy là không
đẹp). Từ đó Ông kêu gọi không nên phân biệt mà coi tất cả là “đồng nhất
thể”: “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”.
* Tư tưởng chính trị - đạo đức
- Thể theo bản tính tự nhiên con người phải sống vô vi, vô sự, không
can thiệp vào trạng thái tự nhiên của vạn vật: “Trâu ngựa có bốn chân, thế là
tự nhiên. Ràng đầu ngựa, xỏ mũi trâu, thế là người. Cho nên bảo chớ lấy
người hại trời, lấy việc hại mệnh”.
- Trong đạo trị nước Ông cũng chủ trương vô vi, vô sự, phản đối việc
dùng lễ nghĩa, pháp luật trói buộc con người như trói buộc trâu ngựa, như
thế là trái với tự nhiên.
4. Mặc gia
a. Mặc Tử (479 – 381 Tr.Cn)
42
Người sáng lập ra đường lối Mặc gia là Mặc Tử, tên là Địch. Tư
tưởng của Ông được thể hiện trong cuốn sách Mặc Tử gồm 53 thiên.
* Bản thể luận và nhận thức luận
- Mặc Tử phản đối thiên mệnh, cho rằng con người tự mình quyết
định vận mệnh của mình. Theo Mặc Tử, mọi sự giàu hay nghèo, sống hay
chết, hoạ hay phúc không phải do số mệnh quy định mà là do hành vi con
người gây nên, “do sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh”. Ông cho rằng chỉ cần
chăm làm và tiết kiệm trong tiêu dung thì sẽ no đủ. Còn nếu tin vào mệnh
trời và chờ mệnh thì trên sẽ không lo việc chính trị mà xã hội thành ra loạn,
dưới sẽ không chịu làm việc mà thành ra nghèo đói.
- Không tin vào mệnh nhưng lại tin vào Trời và quỷ thẩn. Mặc Tử cho
rằng chí Trời là nguyên tắc tối cao cho hành vi của con người, Trời và quỷ
thần luôn công minh ban thưởng cho những người làm tốt và trừng phạt
những kẻ làm xấu: “Vua vũ, vua Văn, vua Thang làm việc, trên thì tôn Trời,
giữa thờ quỷ thần, dưới yên lòng dân cho nên ý Trời nói rằng: Người này
gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu, làm lợi hết thảy những kẻ mà ta muốn
làm lợi… Bởi vậy Trời mới khiến cho sang thì làm đến thiên tử, giàu có cả
thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Vua Kiệt, vua Trụ, vua U,
vua Lệ làm việc, trên thì chê Trời, giữa chê quỷ thần, dưới rẻ người. Cho
nên ý Trời nói rằng: Người này phân biệt những kẻ ta yêu ra để mà ghét, còn
những kẻ ghét người thì hắn cho được rộng rãi, những kẻ hại người thì hắn
cho được hậu hỹ. Bởi vậy Trời mới khiến cho không hết tuổi thọ, không
được trọn đời”.
- Nhận thức luận: Mặc Tử đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm
và thực tiễn. Ông đưa ra thuyết Tam biểu, lấy đó làm tiêu chuẩn cho chân lý:
“Bản”(gốc) là dựa vào chí của trời và việc làm của thành vương đời trước;
43
“nguyên”(nguồn) là dựa vào tai mắt trăm họ; “dụng” là đem áp dụng vào
thực tế xem có đem lại lợi cho trăm họ hay không.
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
- Mặc Tử đưa ra thuyết “Kiêm ái”, kêu gọi mọi người bằng tình yêu
thương lẫn nhau mà duy trì trật tự xã hội. Kiêm ái là gồm yêu tất thảy, không
phân biệt thân hay sơ, sang hay hèn, xa hay gần, ta hay người. Kiêm ái là thể
theo chí trời, là có lợi cho tất cả mọi người “kiêm tương ái, giao tương lợi”,
cho nên kiêm là đúng, biệt là sai.
- Để kiêm ái thì phải thống nhất được ý chí của mọi người từ trên
xuống dưới, phải thực hiện chính sách “Thượng đồng”, tức là dưới nhất nhất
phải nghe theo trên, “điều gì bề trên bảo là đúng thì cũng phải cho là đúng,
điều gì bề trên nói là sai thì cũng phải bảo là sai...”.
- Để thực hiện “Thượng đồng” thì phải thực hiện chính sách “Thượng
hiền”, tức là phải lựa chọn người hiền tài ra làm quan giúp nước và vua phải
là người hiền tài nhất
b. Phái hậu Mặc
Phái Hậu Mặc thời Chiến quốc gồm năm đại diện là Tường Lý, Tường
Phu, Khổ Hoạch, Đăng Lăng, Sỹ dĩ.
- Phái Hậu Mặc phát triển quan điểm duy vật về thế giới, coi vật chất
là bất diệt, thừa nhận vận động diễn ra trong không gian và trong thời gian,
coi vận động là vận động cơ học và tìm cách phân loại các hình thức vận
động máy móc. Họ cho rằng thuộc tính của sự vật là khách quan chứ không
phụ thuộc vào chủ quan con người.
- Phái Hậu Mạc phát triển quan điểm duy vật về nhận thức.
+ Họ cho rằng nhận thức phải có 2 yếu tố là hoạt động cảm nhận của
các quan năng (Ngũ lộ) và tác động của các vật thể lên chúng. Họ chia nhận
thức thành 2 giai đoạn là cảm tính (Ngũ lộ) và lý tính (Tâm), trong đó tâm
44
mới đem lại sự hiểu biết sâu sắc vì tâm lien kết các cảm giác thành chỉnh thể
(Một hòn đá trắng và cứng, nhờ mắt mà biết là trắng, nhờ thân mà biết là
cứng, muốn biết nó vừa trắng vừa cứng phải nhờ tâm liên kết).
+ Họ cho rằng tri thức có ba nguồn gốc: “Văn tri” nhờ người khác
truyền thụ mà co; “thân tri” do giác quan đêm lại; “thuyết tri” nhờ suy luận
mà có.
+ Có bốn loại hiểu biết là: Hiểu biết về “danh” – tên gọi, hiểu biết về
“thực” - vật, hiểu biết về “hợp” – danh tương ứng với thực, hiểu biết về
“hành động” – thông qua hành động thực tế để xem danh có tương ứng thực
hay không. Họ đi gần đến quan niệm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
với quan niệm “phù hợp thì thắng”.
+ Họ phát triển các phép suy luận lôgíc với 6 phương pháp biện luận
là: phép hoặc, phép giả, phép bắt chước, phép so sánh, phép tương tự và
phép suy.
5. Pháp gia
a. Sự hình thành tư tưởng Pháp gia
Người ta cho rằng Quản Trọng (Khoảng thế kỉ thứ 6 Tr.Cn) là người
đầu tiên bàn về đường lối Pháp trị. Quản Trọng cho rằng trị nước phải coi
trọng 4 điều là: luật, hình, lệnh và chính. Luật là để định danh phận cho mỗi
người mà dân không tranh. Lệnh là để cho dân biết việc mà làm. Hình là để
trừng phạt những kẻ làm trái luật và lệnh đã ban. Chính là sửa cho dân theo
đường ngay, lẽ phải.
Các nhà Nho phản đối dung pháp luật trong trị nước, tuy nhiên họ
cúng thừa nhận có lễ cho hang đại phu và có hình dành cho thứ dân, trong đó
“Lễ không đến thứ dân, hình không đến đại phu”.
45
Các đại biểu của Pháp gia thời Chiến quốc đưa ra những chủ trương
trị nước khác nhau: Thận Đáo chủ về Thế, Thân Bất Hại chủ về Pháp,
Thương Ưởng chủ về Thuật.
b. Tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử (280 – 233 Tr.Cn)
Ông là đại biểu tiêu biểu nhất của Pháp gia. Hàn Phi Tử là công tử
nước Hàn, vốn là học trò của Tuân Tử. Ông làm quan cho nước Tần, được
vua Tần trọng dụng nhưng sau đó bị tể tường Lý Tư dèm pha, bị bắt bỏ ngục
và bức uống thuốc độc mà chết. Tư tưởng của Hàn Phi được thể hiện trong
cuốn sách Hàn Phi Tử gồm 55 thiên.
- Bản thể luận của Hàn Phi:
+ Ông chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng duy vật và vô thần của Lã Tử và
Tuân Tử. Ông cho rằng Đạo là quy luật phổ biến tri phối vạn vật. Mỗi vật
đều chịu sự tri phối bởi đạo, nhưng đều có cái lý của riêng mình, trong đó
Đạo là bất biến còn lý thì luôn biến đổi, vì thế con người phải tuỳ cơ ứng
biến cho hợp với lý của vạn vật.
+ Tự nhiên không có ý chí, không do thần thánh tạo ra, tồn tại khách
quan không phụ thuộc vào ý chí của con người hay thần thánh. Con người
không thể làm thay đổi quy luật tự nhiên.
+ Tự nhiên không tri phối hoạt động của con người mà chính hành vi
con người quyết định vận mệnh của mình.
+ Không có quỷ thần thật mà quỷ thần là do những dủi do trong cuộc
sống của con người đẻ ra, do đó nếu con người không bị ốm đau bệnh tật,
chăm làm và tiết kiệm thỉ quỷ thần không thể quấy nhiễu con người.
- Quan niệm về lịch sử:
Hàn Phi coi động lực của sự phát triển lịch sử là sự phát triển dân số
và của cải nhiều hay ít. Ông cho rằng thời Nghiêu, Thuấn con người thì ít,
46
của cải trong tự nhiên thì nhiều nên hoà thuận. Ngày nay người thì đông, của
cải thì ít nên tranh giành, chiến tranh…
Ông chia lịch sử thành ba thời kỳ: Thời Thượng cổ con người đã biết
dung cây làm nhà, dung lửa nấu chin thức ăn. Thời Trung cổ con người đã
biết làm thuỷ lợi, khắc phục thiên tai. Thời Cận cổ xuất hiện giai cấp, chiến
tranh…
- Tư tưởng Pháp trị:
+ Hành Phi chứng minh tính tất yếu của pháp luật. Ông chỉ ra 2 lý do:
Thứ nhất, ngày xưa dân ít, của cải nhiều, không có tranh giành nên không
cần hình phạt. Ngày nay dân nhiều, của cải ít nên tranh giành, chiến tranh
nên cần hình phạt. Hơn nữa pháp luật cũng phải luôn thay đổi cho phù hợp
với cái lý của sự vật. Thứ hai, do tính của con người vốn là ác, là luôn “mưu
lợi cho riêng mình”, cho nên cần dung pháp luật để uốn nắn: “Trị nước
không cậy người tự làm thiện mà khiến người không được làm trái.Cậy
người tự làm thiện thì trong nước chẳng được mười người, khiến người
không được làm trái thì một nước có thể khiến cho yên. Nếu phải đợi gỗ
thẳng mới làm tên bắn thì trăm đời chưa có tên, nếu phải đơih cho gôc tròn
mới làm bánh xe thì trăm đời chưa có bánh xe”.
+ Hàn Phi cho rằng trị nước phải dùng cả pháp, thuật và thế.
“Pháp” là luật pháp được ghi thành văn bản bắt buộc, công khai cho
tất cả mọi người.
“Thuật” là nghệ thuật dùng người, điều hành công việc của kẻ cầm
quyền.
“Thế” là uy của kẻ cầm quyền khiến mọi người phải nể sợ mà tuân
theo.
6. Danh gia
47
Đây là trường phái nguỵ biện, chuyên dùng lối chơi chữ để tranh biện.
Họ thường đưa ra những mệnh đề mâu thuẫn, ngược đời để tranh luận với
người đời. Tuy vậy phái này cũng có những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
a. Huệ Thi (Khoảng 370 – 310 Tr.Cn)
Ông là người nước Tống, từng làm tướng quốc nước Nguỵ, vốn là bạn
thân của Trang Chu.
- Cơ sở biện thuyết của Huệ Thi là chủ nghĩa tương đối. Ông cho rằng
vạn vật đều có cái giống nhau và cái khác nhau, có chứa chấp các mặt đối
lập cho nên mọi sự phân biệt lớn hay bé, cao hay thấp, dài hay ngắn… đều là
tương đối: “Cái lớn nhất không có gì ở ngoài, gọi là đại nhất; cái nhỏ nhất
không thể chứa gì bên trong; gọi là tiểu nhất”. “Cái không có độ dày thì
không thể chứa thêm được gì, nhưng độ lớn của nó là ngàn dặm”. “Trời thấp
bằng đất, núi cao bằng đầm”.
- Vạn vật luôn biến đổi cho nên không gian, thời gian cũng chỉ là
tương đối: “Mặt trời vừa đứng bóng, vừa xế tà”. “Hôm nay đi sang nước
Việt mà hôm qua đã đến”. “Ta biết chỗ giữa của thế giới – Nó ở phía Bắc
của nước Yên (nước Yên ở cực bắc) và phía Nam của nước Việt (nước Việt
ở cực Nam)”. “Phương Nam không giới hạn mà có hạn”. “Vòng liên hoàn
có thể cởi”.
- Vì tất cả đều là tương đối cho nên con người không thể nhận thức
đúng được sự vật, không có tiêu chuẩn khách quan cho chân lý, từ đó đi đến
quan điểm: “Rộng yêu muôn vật, trời đất là một thể”. “Cái giống nhau lớn
mà khác với cái giống nhau nhỏ. Vạn vật ở một phương diện đều giống
nhau, ở một phương diện đều khác nhau, đấy gọi là giống nhau và khác nhau
lớn”.
- Tư tưởng biện chứng của Huệ Thi được thể hiện ở chỗ ông thừa
nhận sự biến đổi và tính mâu thuẫn của thế giới vạn vật.
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan
Lichsutriethoc dvquan

More Related Content

What's hot

Chương i khái luận về triết học và triết học mác
Chương i khái luận về triết học và triết học mácChương i khái luận về triết học và triết học mác
Chương i khái luận về triết học và triết học mácdatnguyen942511
 
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNGBÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNGhieu anh
 
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tien
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tienChu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tien
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tientrungbao10
 
Vật chất
Vật chấtVật chất
Vật chấtjkyokovu
 
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.001210922602 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226Anh Nguyen
 
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học nataliej4
 
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietrobodientu
 
Báo cao copy
Báo cao   copyBáo cao   copy
Báo cao copyRa Bi
 
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...nataliej4
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmacleninPhi Phi
 
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837ntviet1994
 
On tap thi triet hoc mac le nin
On tap thi triet hoc mac le ninOn tap thi triet hoc mac le nin
On tap thi triet hoc mac le ninlongly
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngHoa Huong Duong
 
Tài liệu triết lí
Tài liệu triết líTài liệu triết lí
Tài liệu triết líHuyTranThanh1
 
Tiểu luận mác lênin
Tiểu luận mác lêninTiểu luận mác lênin
Tiểu luận mác lêninCandy Nhok
 
Chuong 1roi chu nghia duy vat bien chung
Chuong 1roi   chu nghia duy vat bien chungChuong 1roi   chu nghia duy vat bien chung
Chuong 1roi chu nghia duy vat bien chungLê Hồng Quang
 
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua mac
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua macSo sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua mac
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua macnguoitinhmenyeu
 

What's hot (19)

Moi quan he triet hoc va khoa hoc cong nghe
Moi quan he triet hoc va khoa hoc cong ngheMoi quan he triet hoc va khoa hoc cong nghe
Moi quan he triet hoc va khoa hoc cong nghe
 
Chương i khái luận về triết học và triết học mác
Chương i khái luận về triết học và triết học mácChương i khái luận về triết học và triết học mác
Chương i khái luận về triết học và triết học mác
 
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNGBÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG
BÁO CÁO TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT CẢM NHẬN VÀ VẬN DỤNG
 
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tien
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tienChu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tien
Chu nghia mac thong nhat ly luan va thuc tien
 
Vật chất
Vật chấtVật chất
Vật chất
 
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.001210922602 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
 
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
 
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
 
Báo cao copy
Báo cao   copyBáo cao   copy
Báo cao copy
 
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
 
Dc on tap_triet_hoc_mac_lenin
Dc on tap_triet_hoc_mac_leninDc on tap_triet_hoc_mac_lenin
Dc on tap_triet_hoc_mac_lenin
 
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837
Tieuluantriet phepbienchunghegel trandangninh_2837
 
On tap thi triet hoc mac le nin
On tap thi triet hoc mac le ninOn tap thi triet hoc mac le nin
On tap thi triet hoc mac le nin
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thương
 
Tài liệu triết lí
Tài liệu triết líTài liệu triết lí
Tài liệu triết lí
 
Tiểu luận mác lênin
Tiểu luận mác lêninTiểu luận mác lênin
Tiểu luận mác lênin
 
Chuong 1roi chu nghia duy vat bien chung
Chuong 1roi   chu nghia duy vat bien chungChuong 1roi   chu nghia duy vat bien chung
Chuong 1roi chu nghia duy vat bien chung
 
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua mac
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua macSo sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua mac
So sanh chu nghia duy vat truoc mac voi chu nghia duy vat cua mac
 

Similar to Lichsutriethoc dvquan

MAC-LENIN textbook
MAC-LENIN textbookMAC-LENIN textbook
MAC-LENIN textbookThyNhii1
 
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...vannguyen769733
 
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431nataliej4
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdfCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdfhophuonguyen2004
 
Chuong I Triet hoc.pptx
Chuong I Triet hoc.pptxChuong I Triet hoc.pptx
Chuong I Triet hoc.pptxThoLi16
 
Chương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfChương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfNamDngTun
 
triết-cuối-kì-1.docx
triết-cuối-kì-1.docxtriết-cuối-kì-1.docx
triết-cuối-kì-1.docxHinLTh14
 
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdfTunMinh97651
 
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdf
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdfde-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdf
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdfquynhvth23503b
 
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUT
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUTĐề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUT
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUTThu Nguyen
 
Triết Học Thi HK.pdf
Triết Học Thi HK.pdfTriết Học Thi HK.pdf
Triết Học Thi HK.pdfBbiyoRan
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptx
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptxCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptx
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptxAnThy38
 
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docxNamNguyenHoang40
 
Bài giảng nguyên lý i
Bài giảng nguyên lý i Bài giảng nguyên lý i
Bài giảng nguyên lý i htthtan
 
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdfDatThinh1
 

Similar to Lichsutriethoc dvquan (20)

MAC-LENIN textbook
MAC-LENIN textbookMAC-LENIN textbook
MAC-LENIN textbook
 
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...
tailieuxanh_20120223010740_tai_lieu_huong_dan_on_tap_triet_hoc_tu_lieu_tham_k...
 
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
Tóm tắt lý thuyết triết học mác – lênin 4854431
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdfCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC  THM-L -.pdf
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC THM-L -.pdf
 
Chuong I Triet hoc.pptx
Chuong I Triet hoc.pptxChuong I Triet hoc.pptx
Chuong I Triet hoc.pptx
 
Chương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdfChương-1.-Triết-học.pdf
Chương-1.-Triết-học.pdf
 
triết-cuối-kì-1.docx
triết-cuối-kì-1.docxtriết-cuối-kì-1.docx
triết-cuối-kì-1.docx
 
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf
2021. Trh Mac. Bai 1. Nhap môn.pdf
 
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdf
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdfde-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdf
de-cuong-on-tap-triet-giua-ky-1.pdf
 
Nganhangcauhoionthitriet
NganhangcauhoionthitrietNganhangcauhoionthitriet
Nganhangcauhoionthitriet
 
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUT
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUTĐề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUT
Đề cương cuối kỳ môn Triết Cao học - Bách Khoa HCMUT
 
Triết Học Thi HK.pdf
Triết Học Thi HK.pdfTriết Học Thi HK.pdf
Triết Học Thi HK.pdf
 
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptx
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptxCHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptx
CHƯƠNG 1 KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC.pptx
 
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
2019-08-07 Giao trinh Triet hoc (Khong chuyen) (1).docx
 
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học.doc
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học.docPhân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học.doc
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học.doc
 
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác – Ănggh...
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác – Ănggh...Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác – Ănggh...
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác – Ănggh...
 
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác - Ănggh...
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác - Ănggh...Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác - Ănggh...
Phân Tích Thực Chất Của Cuộc Cách Mạng Trên Lĩnh Vực Triết Học Do Mác - Ănggh...
 
Bài giảng nguyên lý i
Bài giảng nguyên lý i Bài giảng nguyên lý i
Bài giảng nguyên lý i
 
Tiểu Luận Triết Học Mác Lenin Về Con Người
Tiểu Luận Triết Học Mác Lenin Về Con Người Tiểu Luận Triết Học Mác Lenin Về Con Người
Tiểu Luận Triết Học Mác Lenin Về Con Người
 
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
[123doc] - giao-trinh-triet-hoc-mac-lenin-moi-nhat-2021.pdf
 

Lichsutriethoc dvquan

  • 1. 1 ®¹i häc th¸i nguyªn Tr−êng ®¹i häc s− ph¹m §ång V¨n Qu©n lÞch sö triÕt häc ®Ò c−¬ng bµi gi¶ng (Dïng cho chuyªn ngµnh gi¸o dôc chÝnh trÞ) Th¸i Nguyªn 2010
  • 2. 2 CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận chung về triết học, lịch sử triết học, làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá các đường lối triết học trong lịch sử. Thời lượng: 2 tiết lý thuyết I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC 1. Khái niệm triết học Triết học ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm ở một số trung tâm lớn như Hy Lạp - La Mã Cổ đại, Ấn Độ Cổ đại, Trung Quốc Cổ đại... (từ khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ V trước công nguyên) Theo tiếng Hy Lạp cổ, từ triết học (philosophia) nghĩa là yêu mến sự thông thái; trong tiếng Trung Quốc từ Triết có nghĩa là lý trí; trong tiếng Phạn cổ từ triết học (darshana) có nghĩa là chiêm ngưỡng, suy ngẫm để đi đến lẽ phải. Như vậy với tính cách là một hình thái ý thức xã hội triết học phải bao gồm hai yếu tố cơ bản là yếu tố nhận thức và yếu tố nhận định. Khái quát lại có thể định nghĩa về triết học như sau: Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ nhu cầu của thực tiễn và để phục vụ cho nhu cầu sống của con người. Sự ra đời của triết học bắt nguồn từ hai nguồn gốc là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. - Nguồn gốc nhận thức là sự hình thành, phát triển của năng lực tư duy trừu tượng khái quát của con người.
  • 3. 3 - Nguồn gốc xã hội của nó là sự phát triển của phân công lao động xã hội thành lao động chân tay và lao động trí óc trong xã hội có giai cấp. Cho nên ngay từ khi mới ra đời triết học đã mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của một giai cấp nhất định 2.Đốitượngcủatriếthọc Đối tượng của triết học được hình thành, biến đổi dần dần qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Dưới thời Cổ đại, với nền triết học tự nhiên ở phương Tây, triết học bao gồm tất cả những tri thức mà con người có được: toán học, vật lý học, thiên văn học, siêu hình học...nên chưa có sự phân biệt đối tượng của triết học với đối tượng của khoa học. Đây là cơ sở hình thành nên quan niệm coi triết học là “khoa học của mọi khoa học”. Dưới thời Trung cổ, do sự thống trị của tôn giáo, triết học tự nhiên được thay thế bằng triết học Kinh viện nên nó phát triển một cách chậm chạp. Thực chất đây là giai đoạn phủ định nền văn minh cổ đại. Đối tượng của triết học Kinh viện chỉ là các vấn đề tự biện như niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục; chúng xa rời với cuộc sống. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học dưới thời Phục hưng- Cận đại làm xuất hiện một loạt các khoa học chuyên ngành, cụ thể: toán học, vật lý học, sinh học...Vấn đề đối tượng của triết học bắt đầu được đặt ra. Chủ nghĩa duy vật siêu hình dựa trên nền tảng tri thức học đã giải quyết tốt các vấn đề về tự nhiên nhưng lại không giải quyết được các vấn đề xã hội. Hệ thống triết học duy tâm của Hê ghen là hệ thống triết học cuối cùng có tham vọng đứng trên các khoa học với tính cách là “khoa học của các khoa học”. Sau khi hệ thống này bị phá sản đã có những quan niệm cho rằng “triết học đã chết” hay triết học chỉ nghiên cứu vấn đề phương pháp.
  • 4. 4 Với sự ra đời của triết học Mác, đối tượng của triết học lần đầu tiên trong lịch sử được xác lập một cách đúng đắn. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo lập trường duy vật triệt để, nghiên cứu những quy luật chung nhất củ tự nhiên, xã hội và tư duy. II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC Qua trình hình thành, phát triển của triết học trong lịch sử luôn có những tính quy luật chung như: Nó gắn với những điều kiện kinh tế-xã hội nhất định (cơ sở kinh tế xã hội, đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các lực lượng xã hội…); nó gắn với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó gắn với cuộc đấu tranh giữa các đường lối triết học (duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, khả tri và bất khả tri luận…). - Trước hết, sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn với những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, gắn với các cuộc đấu tranh giai cấp nhất định. Các trường phái triết học trong lịch sử luôn là nền tảng thế giới quan của các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Cghủ nghĩa duy vật là đại diện tư tưởng cho những lực lượng tiến bộ, còn chủ nghĩa dyt tâm đại biểu cho những lực lượng phản động (VD cụ thể). - Sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên và xã hội. Ăngghen đã khẳng định: Mỗi khi khoa học tự nhiên phát triển nó đều đòi hỏi chủ nghĩa duy vật phải có sự thay đổi hình thức tồn tại của mình. Triết học phải dựa trên cơ sở khái quát các tri thức khoa học cụ thể. Khoa học luôn là một trong những tiền đề của triết học.
  • 5. 5 - Lịch sử triết học là lịch sử hình thành và đấu tranh qua lại giữa các đường lối, trường phái triết học như: duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, khả tri và bất khả tri luận, duy cảm và duy lí… Các trường phái triết học không chỉ phủ định, bài trừ nhau mà chúng còn kế thừa lẫn nhau. Cuộc đấu tranh xuyên suốt lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. III. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC, CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC 1. Vấn đề cơ bản của triết học Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Giải quyết vấn đề cơ bản vừa là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác, vừa là tiêu chuẩn để phân định lập trường, thế giới quan của các nhà triết học và các học thuyết của họ. Vấn đề cơ bản của triết học có hại mặt: - Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau; cái nào sinh ra cái nào; cái nào quyết định cái nào? - Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Tuỳ thuộc vào cách trả lời cho những câu hỏi trên mà các nhà triết học được phân ra thành những trường phái, những đường nlối khác nhau. 2. Các trường phái triết học a. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. - Chủ nghĩa duy vật: Trường phái này cho rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất sinh ra ý thức; vật chất quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật tồn tại dưới ba hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
  • 6. 6 + Chủ nghĩa duy vật chất phác tồn tại trong nền triết học cổ đại; còn mang tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng CNDVCD cơ bản là đúng đắn vì nó đã lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên, không viện đến thần linh hay thượng đế. + Chủ nghĩa duy vật siêu hình từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 là đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Nó đã góp phần quan trọng vào việc chống chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Tuy nhiên, do bị hạn chế bởi phương pháp tư duy siêu hình nên duy vật chưa triệt để, duy vật về tự nhiên nhưng lại duy tâm về xã hội. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập và phát triển. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. - Chủ nghĩa duy tâm: trường phái này cho rằng ý thức, tinh thần mới là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tồn tại dưới hai hình thức là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. + Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có tồn tại một lực lượng tinh thần khách quan có trước giới tự nhiên, là nguyên nhân sinh ra giới tự nhiên và chi phối toàn bộ thế giới (linh hồn thế giới, ý niệm tối cao, ý niệm tuyệt đối...). + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng chính cảm giác cá nhân của mỗi người đã sinh ra thế giới hiện thực xung quanh, do đó thế giới không tồn tại khách quan mà phụ thuộc vào cảm giác của mỗi người. - Nhị nguyên luận là một trường phái triết học không cơ bản, một đường lối trung gian. Trường phái này cho rằng thế giới bắt nguồn từ hai nguồn gốc khác nhau là nguồn gốc vật chất và nguồn gốc tinh thần cho nên vật chất và ý thức – không cái nào có trước có sau, không cái nào sinh ra cái nào, không cái nào quyết định cái nào.
  • 7. 7 b. Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết - Thuyết có thể biết (khả tri luận) là một đường lối cơ bản trong nhận thức luận. Theo thuyết này thì thế giới là có thể nhận thức, con người có thể biết được bản chất của thế giới. Đa số các nhà duy vật đi theo đường lối này, ngoài ra còn có nhiều nhà duy tâm cũng có quan điểm khả tri. - Thuyết không thể biết (bất khả tri luận), ngược lại cho rằng con người không có khả năng nhận thức bản chất của thế giới, mọi tri thức đều là chủ quan do con người tự tạo ra không có liên quan gì đến thế giới. IV. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG 1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và ph pháp biện chứng a.Phương pháp siêu hình Phương pháp siêu hình là phương pháp: + Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khoie các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. + Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có thừa nhận sự biến đổi thì chỉ nhìn nhận là sự biến đổi về số lượng coi nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở ngoài đối tượng. + Xem xét các sự vật ở trạng thái phi mâu thuẫn b. Phương pháp biện chứng Phương pháp biện chứng là phương pháp: + Nhận thức đối tượng ở trong các mối liện hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. + Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Nhìn nhận phát triển là quá trình thay đổi về chất của các sự vật hiện tượng và nguồn gốc của sự thay đổi ấy là các mâu thuẫn nội tại của chúng.
  • 8. 8 + Coi thế giới là sự thống nhất của các mặt đối lập. 2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng Phép biện chứng đã trải qua ba giai đoạn phát triển thể hiện dưới ba hình thức lịch sử là phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật - Phép biện chứng tự phát tồn tại trong nền triết học cổ đại. Các nhà biện chứng thời kỳ này đã thữa nhận rằng các sự vật hiện tượng trong thế giới không ngừng sinh thành biến hoá vô tận. Đây là kết quả quan sát trực tiếp nên còn thể hiện tính trực quan ngây thơ. - Phép biện chứng duy tâm do Hêghen xây dựng một cách tự giác, có hệ thống nhưng trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm cho nên còn mang tính thần bí khó hiểu và chưa triệt để. Mác gọi đây là phép biện chứng “ lộn đầu xuống đất” - Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập trên cơ sở kế thừa phép biện chứng của Hêghen, tẩy rửa nó khỏi chủ nghĩa duy tâm, đặt cho nó “ đứng bằng chân”. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của phương pháp biện chứng - phép biện chứng triệt để. V. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Vai trò của triết học được thể hiện bằng chức năng của nó. Triết học có nhiều chức năng khác nhau như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục... Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. 1.Chức năng thế giới quan của triết học Những vấn đề mà triết học đặt ra và tìm cách giải quyết trước hết là vấn đề thế giới quan. Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con
  • 9. 9 người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Trong thế giới quan có sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp làm hình thành thế giới quan nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi nó biến thành niềm tin. Thế giới quan có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống con người. Nó là một “thấu kính” mà qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh và bản thân mình; là cơ sở cho các hành vi của con người trong xã hội; là nguyên tắc cho các hoạt động của con người; là định hướng cho quá trình hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cá nhân. Trong quá trình phát triển lịch sử của mình thế giới quan đã lần lượt trải qua ba hình thức là thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. - Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của con người nguyên thuỷ mà ở đó có sự đan bện giữa các yếu tố trí tuệ và tình cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và hư ảo, cái thần và cái người...không thể phân định. - Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ đạo; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái hư ảo lấn át cái thực như Téc tu liêng đã từng tuyên bố: "Tôi tin vì điều đó là vô lý”. - Thế giới quan triết học là trình độ tự giác và cao nhất của thế giới quan mà trong đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là lý luận về thế giới quan. Triết học có nhiệm vụ đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế giới cho nên nó có vị trí là cơ sở lý luận cho các khoa học và định hướng cho sự hình thành thế giới quan cá nhân của mỗi người và mỗi cộng đồng. Chức năng thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ: là hạt nhân lý luận của thế giới quan nên nó làm cho thế giới quan phát triển một cách tự
  • 10. 10 giác trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và các tri thức do các khoa học đưa lại. 2.Chức năng phương pháp luận của triết học Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Có ba loại phương pháp luận là phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác lập phương pháp, là lý luận về phương pháp. 3. Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể Triết học bắt nguồn từ các khoa học cụ thể, là kết quả khái quát từ những tri thức khoa học cụ thể. Ngượpc lại chính triết học lại trở thành cơ sở lý luận và cơ sở phương pháp luận cho các khoa học cụ thể phát triển. ----------------------------------------------- NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP 1. Vấn đề cơ bản của triết học và các đường lối triết học? 2. Sự đối lập giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình?
  • 11. 11 CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết học và nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại. Thời lượng: 8 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận. I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI 1. Hoàn cảnh ra đời của triết học ấn Độ Cổ đại a. Điều kiện tự nhiên Ấn Độ Cổ đại là một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam châu Á với địa hình phức tạp. Phía Bắc bị án ngữ bởi dãy Hymalaya hùng vĩ với trên bốn chục ngọn núi cao trên một nghìn mét so với mặt nước biển, quanh năm tuyết phủ. Phía Đông, Nam và Tây nam được bao bọc bởi Ấn Độ dương. Lãnh thổ được chia cắt thành nhiều vùng: vùng đồng bằng đất đai màu mỡ, nằm dọc theo lưu vực hai con sông lớn - sông Ấn và sông Hằng; vùng sa mạc khô cằn; vùng núi non hiểm trở và vùng cao nguyên với hệ thống sông ngòi chằng chịt. b. Điều kiện kinh tế xã hội Nền văn minh đầu tiên xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại cách đây khoảng bốn nghìn năm trăm năm, đó là nền văn minh Sông Ấn. Nền văn minh này tồn tại đến khoảng thế kỷ XVII Tr.CN thì bị diệt vong mà không rõ nguyên nhân. Từ khoảng thế kỷ XV Tr.CN người Arya từ Tây bắc tràn xuống chinh phục Ấn Độ cổ đại, sau đó bị đồng hoá vào nền văn minh của người Dra vi da bản sứ và trở thành chủ nhân của Ấn Độ cổ đại. Từ thế kỷ VII Tr.CN đất nước Ấn Độ trải qua nhiều biến cố với các cuộc chiến tranh giữa các vương
  • 12. 12 triều và chiến tranh chống sự xâm lăng từ bên ngoài. Thời cổ đại của Ấn Độ kéo dài đến thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên. Những đặc điểm nổi bật về kinh tế - xã hội thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ là: + Sự tồn tại bền vững, dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với sở hữu nhà nước về đất đai. + Xã hội được phân hoá thành những dẳng cấp chính: tăng lữ ( Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân (Vaisya) và tiện nô (Ksudra). + Sự thống trị của tôn giáo trên tất cấcc lĩnh vực của đời sống xã hội. c. Điều kiện về văn hoá Ấn Độ cổ đại có nền văn hoá, khoa học phát triển tương đối rực rỡ, với nhiều giá trị để lại cho đời sau như: toán học, y học, kiến trúc, tâm lý học, triết học... Văn hoá Ấn Độ cổ, trung được chia thành ba thời kỳ: Văn minh Sông Ấn (TK XXV Tr.CN - TK XV Tr.CN), văn minh Vêda ( TK XV Tr.CN - TK VII Tr.CN), văn minh Hậu Vêda (từ TK VII Tr.CN). 2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại Triết học Ấn Độ cổ đại hình thành và phát triển chủ yếu là từ TK VII Tr.CN Trở về sau. Ở thời kỳ này xuất hiện hai nhóm với các trường phái khác nhau: - Các trường phái chính thống thừa nhận quyền uy của kinh Vêda: Samkhya, Mimansa, Vedalta, Yoga, Nyaya, Vaisesika. - Các trường phái không chính thống phủ nhận quyền uy của kinh Vêda: Lôkayata, Jaina, Đạo phật. - Đặc điểm chung của triết học ấn Độ cổ, trung đại là: + Sự đan xen giữa triết học và tôn giáo. + Sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
  • 13. 13 + sự kế tục lần nhau giữa các học phái và sự kế tục các tư tưởng của Vêda trong các học phái khác nhau. + Quan niệm về bản thể có tính trừu tượng cao, đặc biệt là về cái “không”. II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ VEDA 1. Tư tưởng Kinh Veda Veda là bộ sách cổ nhất của người Ấn Độ cổ đại cũng như của nhân loại nói chung. Nó bao gồm những câu ca dao, vịnh phú, những tập tục, nghi lễ, những bài cúng tế, phù chú, ma thuật… được các bộ tộc người Arya sang tác ra trong vòng hơn một nghìn năm; lúc đầu bằng con đường truyền miệng, từ thế kỷ XI đến TK VIII trước CN được chép thành văn bản. Kinh Veda bao gồm 4 bộ kinh sớm là: Rig-Veda, Sama-Veda, Yajur- Veda và Atharva-Veda; sau đó được bổ sung them 2 bộ kinh trung là Brahmana và Aranyaka; bộ kinh cuối cùng là Upanishad. Thế giới quan trong các bộ kinh sớm và kinh trung là thế giới quan thần luận – tôn giáo, lúc đầu là Đa thần luận, về sau phát triển thành Nhất thần luận. Upanishad là bộ kinh cuối cùng chứa đựng tư tưởng duy tâm khách quan, thể hiện ở 3 nội dung chính: Thứ nhất, thừa nhận tinh thần tuyệt đối tối cao Brahman (Phạn thiên, Thần Ngã). Thứ hai, thừa nhận linh hồn bất tử Atman, do Brahman sinh ra và là biểu hiện của nó. Thứ ba, thừa nhận luật nhân quả và thuyết luân hồi - nghiệp báo. 2. Tư tưởng của hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata a. Sử thi Ramayana
  • 14. 14 Bộ sử thi này kể về việc hoàng tử Rama cùng người em cùng cha khác mẹ, tướng khỉ Hanuman chiến đấu cứu người vợ yêu quý, sinh đẹp là nàng Sita. Nhưng sau đó long nghi kị, ghen tuông đã giết chết nàng Sita khi đang mang trong bụng đứa con của Rama. Tư tưởng chủ yếu trong Ramayana là triết lí đạo đức – nhân sinh về cái thiện, cái ác, đức hy sinh, lòng quả cảm, bổn phận tự nhiên và những mâu thuẫn trong mỗi người giữa cái cao thượng và thấp hèn. Bộ sử thi này còn chứa đựng những yếu tố duy vật tự phát như không thừa nhận linh hồn bất tử, cho rằng con người ta sinh ra từ đất và khi chết đi lại trở về với đất; tin vào cảm giác, chỉ những gì được cảm giác chứng thực thì mới đáng tin cậy. b. Sử thi Mahabharata Bộ sử thi này kể về câu chuyện cuộc chiến kéo dài 18 ngày đêm giữa 5 hoàng tử dòng họ Pandava với 100 anh em dòng họ Kaurava. Họ đều là than tộc, con cháu của Bharata, chỉ vì tranh giành đất đại mà chem. giết lẫn nhau. Câu chuyện phản ánh quá trình hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ cổ đại. Trong sử thi có lồng ghép những sự tích thần linh, ẩn dụ triết học, phương châm sử thế…trong đó có phần lắp ghép triết học quan trọng nhất là Bhagavad-Gita (Chí tôn ca). Đây là lời khuyên của người đánh xe Krishna, hiện thân của thần Vishnu, mach bảo cho dũng sĩ Arjuna trong đêm trước trận chiến, thuyết giải về lẽ trời, bổn phận… Ở đó thừa nhận linh hồn là bất tử, thế giới vạn vật chỉ là ảo ảnh phù du, Tinh thần tuyệt đối tối cao mới là bản thể đích thực, cho nên con người phải hành động theo bổn phận (Dharma) một cách nhiệt thành, vô tư, dốc sức chime nghiệm nội tâm mới tìm ra chân bản, có lòng tin thờ phụng đấng tối cao mới được siêu thoát (đây là cơ sở của đạo Hinđu).
  • 15. 15 III. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜi KỲ HẬU VEDA 1. Trường phái Samkhya Phái Samkhya sơ kỳ co khuynh hướng duy vật. Phái này cho rằng mọi cái đều xảy ra theo nguyên nhân của mình. Nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng là vật chất. Dạng vật chất đầu tiên là prariti. Nó là thể thống nhất của ba yếu tố (guna): Satta(nhẹ, sáng, tươi, vui), Rajas(động, kích thích), Tamas(nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì Prariti là dạng vật chất tinh tế, không thể tri giác được. Khi sự cân bằng bị phá vỡ thì vật chất bị biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng nhờ đó thế giới được tạo ra. Phái Samkhya hậu kỳ chuyển sang lập trường nhị nguyên, thừa nhận rằng: ngoài Prariti thì cần phải có Purusa truyền sinh khí vào mới sinh ra được vạn vật. 2. Trường phái Mimansa kinh điển của trường phái này là Mimansa – sutra do nhà hiền triết Jaimini viết. Phái Mimansa sơ kỳ có xu hướng vô thần, không thừa nhận thần linh. Họ cho rằng sự tồn tại của thần là không có chứng cứ vì không thể tri giác được thần. Không tin vào thần linh, nhưng những người thuộc trường phái này lại tin vào sức mạnh của Vêda, họ cho rằng các nghi lễ trong Vêda tự có sức mạnh vật chất chứ không phải do thần linh đem lại. Phái Mimansa hậu kỳ lại chuyển sang lập trường hữu thần. 3. Trường phái Vedalta Kinh điển của trường phái này là vedalta - sutra do Badarayana viết. Phái này muốn hệ thống hoá lại tư tưởng của Upanishad - bộ kinh cuối cùng trong Vêda, nên Vedalta có nghĩa là “ kết thúc của Vêda”. Phái Vedalta sơ kỳ mang lập trường nhất nguyên duy tâm. Phái này cho rằng: Tồn tại là ý thức thuần tuý, là sự thống nhất tuyệt đối giữa Brahman (linh hồn thế giới)
  • 16. 16 với Atman (linh hồn cá thể); thế giới vật chất là ảo giả, không thực do vô minh sinh ra. Phái Vedalta hậu kỳ có quan điểm duy tâm khách quan, thừa nhận sự tồn tại khách quan của cả Brahman lẫn Atman, trong đó Atman là bộ phận của Brahman. 4. Trường phái Yoga Tư tưởng của phái Yoga là sự kết hợp giữa tư tưởng của Samkhya với thần, nhưng thần của họ không phải là lực lượng sáng tạo ra thế giới, mà chỉ là sự siêu thoát của con người. Phái này đưa ra một hệ thống các phương pháp tu luyện mà về sau được nhiều phái khác vận dụng (luyện Yoga). 5. Trường phái Nyaya - Vaisesika Lúc đầu hai phái này độc lập nhưng có nhiều điểm tương đồng, về sau sáp nhập làm một. Trường phái này có hai đóng góp quan trọng là nguyên tử luận và lôgic học. Nguyên tử luận: Theo thuyết này thì thế giới là thế giới vật chất. Thế giới vật chất vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng tất cả đều được tạo nên từ bốn dạng vật chất đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí; các dạng vật chất này lại được tạo nên từ các nguyên tử (Anu). Nguyên tử là những hạt vật chất bất biến, vĩnh viễn, khác nhau về khối lượng, hình dáng và tồn tại trong không gian và thời gian. Ngoài nguyên tử còn có vô số những linh hồn cá thể (Ya) mà đặc tính của chúng là ước vọng, ý chí, buồn vui, giận hờn...Để điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử hay giữa nguyên tử và linh hồn cần phải có một lực lượng thứ ba là thần Isvara. Lôgic học: Phái này thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm; coi thức tiễn (kinh nghiệm) là tiêu chuẩn của chân lý - “phù hợp thì thắng”. Họ đưa ra phép ngũ đoạn luận - phép suy luận gồm năm phán đoán: luận đề, nguyên nhân, minh hoạ, suy đoán, kết luận. Ví dụ: Đồi có lửa cháy vì đồi bốc khói mà mọi cái
  • 17. 17 có khói thì đều có lửa chẳng hạn như bếp. Đồi có khói thì không thể không có lửa. Suy ra đồi phải có lửa cháy. 6. Trường phái Jaina Người sáng lập ra trường phái là nhà hiền triết Vardhamana hay còn gọi là Maharvira(600 - 527 tcn). Trường phái này theo chủ nghĩa tương đối mà theo đó thì tồn tại vừa bất biến, vừa biến đổi. Vật chất là cái vĩnh hằng, bất biến, trong khi các sự vật vật chất thì thường xuyên biến đổi. Ví như đất sét thì không thay đổi, nhưng những cái bình gốm tạo nên từ chúng thì thường xuyên thay đổi. Vật chất được tạo nên từ các nguyên tử vô cùng nhỏ bé, không thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn(Atgiva). Ngoài nguyên tử còn có vô số các linh hồn bất tử(Giva). Linh hồn là toàn năng có thể thâm nhập vào mọi cái và có thể hiểu biết được mọi thứ, nhưng do bị hạn chế bởi thể xác nên không thể siêu thoát. Muốn siêu thoát con người phải tu luyện theo chủ nghĩa khổ hạnh. Đạo Jaina về sau được chia thành hai phái là phái “loã hình”- không mặc quần áo và phái “bạch y”- mặc đồ trắng. 7. Trường phái Lokayata Phái Lokayata không tồn tại như một trường phái độc lập, không có kinh điển riêng, mà chỉ là một khynh hướng tư tưởng duy vật tự phát chống đối lại Vêda và các tôn giáo, nên trong Vêda nó được coi là tư tưởng của quỷ dữ. Phái này cho rằng mọi cái đều được tạo nên từ bốn yếu tố vật chất đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí. Tính đa dạng của vạn vật là do cách thức kết hợp khác nhau mà nên. Con người cũng được tạo nên từ bốn yếu tố trên, nên không có linh hồn bất tử. Họ ví cơ thể tạo ra ý thức cũng giống như từ gạo nấu ra rượu, nhưng rượu khác gạo ở chỗ nó có chất say. Từ quan điểm duy vật trên những người thuộc phái Lokayta kêu gọi phải sống hết mình,
  • 18. 18 hưởng lac: “hãy ăn đi, hãy uống đi cho dù ngày mai sẽ chết” bởi lẽ “kẻ điên khùng cũng như nhà hiền triết, chết đi rồi thân nát ra thành tro bụi, sẽ tan đi hết chẳng để lại gì”. 8. Trường phái Phật giáo “Buddha” Người sáng lập ra đạo Phật là Siddharta (Tất Đạt Đa), về sau được gọi là Sakyamuni (Phật Thích ca mầu ni). Ông sống vào những năm (563 - 483 Tr.CN). a. Quan niệm của Đạo Phật về thế giới Quan niệm về thế giới của đạo Phật được thể hiện bằng bốn tư tưởng chính là: + “Vô tạo giả”: Theo đạo Phật thì mọi cái xảy ra đều có nguyên nhân của mình, cho nên không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả cuối cùng. Do đó đạo Phật không thừa nhận lực lượng sáng tạo thế giới, không thừa nhận thần thánh. Đây là một tôn giáo vô thần. + “Vô ngã”: Mọi cái trong thế giới đều là sự giả hợp của các yếu tố do nhân duyên hợp nhau mà thành. Ngay cả con người cũng do “ngũ uẩn” hợp lại mà nên. “ngũ uẩn” (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) hội lại thì có ta, tan ra thì không còn ta, cho nên không có cái tôi vĩnh viễn. Thế giới “vạn pháp” và đời người chỉ là ảo giả, do vô minh mà thành ra “có”, còn bản chất của nó là “không”. + “Vô thường”: Không có một cái gì là trường tồn, bất biến. Tất cả đều biến đổi trong một vòng khâu vô tận, không ngừng, không nghỉ. Sinh vật thì biến đổi trong vòng khâu: sinh - trụ - dị - diệt. Vật vô sinh thì biến đổi theo chu trình: thành- trụ - hoại- không. + “Nhân quả tương tục”: Mọi cái xảy ra đều phải có nguyên nhân, nguyên nhân nào thì kết quả ấy “trồng dưa đắc dưa, trồng đậu đắc đậu”. Nhân nhờ có duyên mới thành ra quả.
  • 19. 19 b. Triết lý nhân sinh của Đạo Phật Triết lý nhân sinh của đạo Phật tập trung vào vấn đề giải thoát đời người ra khỏi vòng luân hồi - nghiệp báo. Theo đạo Phật đời người cũng chịu sự chi phối bởi luật nhân quả, theo đó thì tổng hợp tất cả các hành vi của một kiếp người sẽ tạo ra nghiệp chướng quy định sự luân hồi, tức là chết đi ở kiếp này để rồi lại phải sinh ra ở kiếp khác, do đó sẽ vĩnh viễn khổ đau. Do đó phải tìm cách để siêu thoát về cõi Niết bàn. Toàn bộ triết lý này được thể hiện bằng thuyết “tứ diệu đế”, tức là bốn chân lý lớn. + “ Khổ đế”: Đạo Phật cho rằng đời là một “bể khổ”. Khổ đế gồm “bát khổ”- Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Sở cầu bất đắc khổ, Ngũ thụ uẩn khổ. + “Nhân đế” hay “tập đế”: Nỗi khổ của cuộc đời có nguyên nhân của nó, gồm “Thập nhị nhân duyên”- Vô minh, Duyên hành, Duyên thức, Duyên danh sắc, Duyên lục nhập, Duyên xúc, Duyên thụ, Duyên ái, Duyên thủ, Duyên hữu, Duyên sinh, Duyên lão tử. + “Diệt đế”: Đạo Phật cho rằng có thể diệt khổ để đạt đến trạng thái “Niết bàn”, tức là trạng thái tịch diệt, tĩnh lặng, trống rỗng, minh sáng, không sinh, không diệt. + “Đạo đế”: Đạo Phật chỉ ra tám con đường diệt khổ gọi là “bát chính đạo”, gồm: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định. Tám con đường trên có thể tóm lại trong ba con đường gọi là “Tam học”: Giới, Định, Tuệ; được dùng để đối lại ba nguyên nhân chính gây khổ là “Tam độc”: Tham, Sân, Si. Sau khi xuất hiện, đạo Phật phát triển nhanh chóng, phân chia ra thành nhiều chi phái khác nhau. Kinh điển đạo Phật được gọi là kinh Tam tạng. Từ thế kỷ thứ IX SCN đạo Phật bắt đầu suy tàn ở Ấn Độ và đến cuối thế kỷ thứ
  • 20. 20 XII thì hoàn toàn sụp đổ dưới sự tấn công của đạo Hồi, được du nhập từ Ả Rập vào. Trước khi bị diệt vong ở Ấn Độ, đạo Phật đã kịp lan truyền sang các nước khác: lên phía Bắc với phái Bắc tông ( Phật giáo Đại Thừa); xuống phía Nam với phái Nam tông ( Phật giáo Tiểu Thừa). Ngày nay đạo Phật là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới với hàng trăm triệu tín đồ. IV. KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh sớm của nhân loại. Triết học Ấn Độ cổ đại có truyền thống phát triển lâu đời với rất nhiều trường phái triết học tôn giáo. Thông qua những trường phái này diễn ra cuộc đấu tranh giữa các xu hướng như duy vật và duy tâm, tôn giáo và vô thần, lạc quan và bi quan… Các trường phái này vừa cạnh tranh lẫn nhau, vừa kế tục nhau, làm hình thành nhiều phạm trù triết học – tôn giáo có tính đặc trưng như bản thể không, nhân quả, giải thoát… Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều vấn đề về bản thể luận, nhận thức luận, tâm lý, đạo đức, tâm linh… Cho nên nền triết học này có nhiều đóng gớp quan trọng về các vấn đề tâm lý học, logic học, triết lý nhân sinh… Triết học Ấn Độ cổ đại đã lan truyền và có những ảnh hưởng sâu sắc trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam. NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP 1. Kinh Vêda và tư tưởng chủ yếu của Vêda? 2. Sự phân chia trường phái và khái quát về xu hướng tư tưởng của các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại? 3. Đạo Phật và nội dung tư tưởng cơ bản của Đạo Phật?
  • 21. 21 CHƯƠNG III. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết học và nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – chính trị Trung Quốc cổ, trung đại. Thời lượng: 9 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra. I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 1. Hoàn cảnh ra đời triết học Trung Quốc cổ đại Về địa lý: Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn nằm ở Đông- Bắc châu Á, có hai miền khác biệt. Miền Bắc có lưu vực sông Hoàng Hà, khí hậu lạnh lẽo, đất đai khô cằn, cây cối thưa thớt, ít sản vật; phía Nam có lưu vực sông Dương Tử, khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ, nhiều sản vật. Về kinh tế - xã hội: Thời cổ đại ở Trung Quốc được bắt đầu từ triều đại nhà Hạ ( TK XXI Tr.CN - TK XVII Tr.CN); kế đến là triều đại nhà Thương hay là Ân - Thương( TK XVII - TK XI Tr.CN); cuối cùng là nhà Chu (TK XI- TK III Tr.CN). Nhà Chu gồm hai giai đoạn là Tây Chu(TK XI - TK VIII Tr.CN) và Đông Chu(TK VIII - TK III Tr.CN). Thời Đông Chu, hay còn gọi là thời Xuân thu - Chiến quốc, là thời kỳ hình thành và phát triển các trường phái triết học. Đây là thời kỳ quá độ từ chế độ Chiếm hữu nô lệ lên chế độ Phong kiến ở Trung Quốc. Thời kỳ này có rất nhiều biến động chính trị, chiến tranh xảy ra liên miên, các chư hầu nổi lên tranh giành lẫn nhau và lấn át nhà Chu làm cho thể chế nhà Chu dần dần suy tàn. Nền kinh tề nông nghiệp phát triển mạnh mẽ: đã biết dùng gia súc để kéo cày, công cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi, đã biết làm thuỷ lợi
  • 22. 22 một cách hệ thống. Ở thời Chiến Quốc chế độ mua bán đất đai xuất hiện, ruộng đất đần dần tập trung trong tay một số người, họ tiến hành phát canh thu tô làm nảy nở quan hệ sản xuất phong kiến. Năm 221 Tr.CN nhà Tần tiêu diệt nhà Chu để thiét lập nên một quốc gia phong kiến tập quyền ở Trung Quốc, đất nước chuyển sang thời trung đại. Về văn hoá, khoa học: Trung Quốc cổ đại có một nền văn hoá phát triển rực rỡ. Thời Xuân thu – Chiến quốc được coi là thời kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Thời kỳ này nổi lên khoảng mười trường phái triết học lớn nhỏ khác nhau đua tranh với nhau: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia, Tiểu Thuyết gia. Các tri thức khoa học cũng hình thành và phát triển mạnh như: Thiên văn học, Hoá học, Toán học, Y học... 2. Đặc điểm triết học Trung Quốc cổ đại - Triết học Trung Quốc cổ, trung đại có tính nhân văn sâu sắc, chủ yếu xoay quanh các vấn đề về con người, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề về tự nhiên. - Triết học gắn liền với các vấn đề chính trị, cho nên mồi trường phái triết học thực chất là một học thuyết chính trị - xã hội - đạo đức. - Triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, sự hoà đồng giữa con người và thế giới. - Tư duy triết học còn mang tình trực quan, thiếu tính lôgíc chặt chẽ, tản mạn, chưa được luận giải và chứng minh một cách hệ thống.
  • 23. 23 II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ ÂN – THƯƠNG VÀ TÂY CHU Ở thời kỳ này đã xuất hiện cuộc đấu tranh giữa hai xu hường là thế giới quan duy tâm, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, vô thần chất phác. Giới chủ nô quý tộc cầm quyền tuyên truyền thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Họ cho rằng mọi sự đều do cí trời và quỷ thần chi phối, chính quyền là do trời ban, nghèo hèn hay sang giàu là do mệnh nên khuyên người ta chấp nhận mệnh mà nghe theo bọn cầm quyền. Đối lập với quan điểm này là những quan niệm duy vật, vô thần tiến bộ. Họ tin rằng con người có thể tự quyết định vận mệnh của mình, họ tìm cách lí giải các hiện tượng tự nhiên từ chính tự nhiên. Tang Văn Trọng cho rằng chỉ cần người ta chăm làm và tiết kiệm tiền của thì sẽ đề phòng được thiên tai, dịch bệnh. Sĩ Bá cho rằng dựa vào quỷ thần để giải thích biện hộ cho hành vi của mình là tội ác lớn nhất. Tử Sản cho rằng đạo trời thì xa, đạo người thì gần nên bàn về đạo trời là ba hoa, sáo rỗng. Bá Văn Dương giải thích hiện tượng địa trấn năm 780 Tr.Cn theo quan điểm âm-dương. Tác phẩm nổi tiếng thể hiện lập trường duy vật, vô thần và biện chứng chất phác thời kỳ này là Kinh Dịch. III. TRIẾT HỌC THỜi KỲ XUÂN THU - CHIẾN QUỐC 1. Âm - Dương gia Phái Âm - Dương do Châu Diễn sáng lập vào khoảng TK III Tr.CN, trên cơ sở thống nhất hai học thuyết: Âm - Dương và Ngũ hành với nhau. Thuyết Âm - Dương: Dương nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời. Âm là thiếu ánh sáng mặt trời. Theo nghĩa rộng thì Âm và Dương được hiểu là những lực lượng đối lập nhau nhưng lại quy định, ràng buộc nhau, nương tựa vào nhau, trong cái này đã có cái kia và ngược lại như: sáng và tối, trời và đất, nóng và lạnh, đực và cái...Sự tương tác giữa hai lực Âm và Dương
  • 24. 24 sinh ra thế giới vạn vật. Trong Kinh Dịch có ghi rằng từ Thái cực (cân bằng, thống nhất Âm và Dương) sinh Lưỡng nghi (Âm và Dương), từ Lưỡng nghi sinh Tứ tượng(Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm), từ Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), từ Bát quái sinh vạn vật. Âm và Dương mà hoà hợp, đạt đến đạo trung hoà thì vạn vật sinh sôi, nảy nở; Âm và Dương mà xung khắc thì vạn vật biến đổi, huỷ diệt. Như vậy thuyết Âm - Dương lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên nên nó mang màu sắc duy vật. Nhưng về sau thuyết này được dùng để giải thích các vấn đề về xã hội, con người, vận mệnh...nên dần dần mang màu sắc duy tâm thần bí, nhất là khi nó bị giai cấp cầm quyền lợi dụng. Thuyết Ngũ hành: Ngũ hành được hiểu là năm hoạt động, năm tác nhân, đó là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Mỗi hành lại có đức riêng của mình: đức của Hoả là nóng, bốc lên; đức của Thuỷ là ẩm ướt, thấm xuống; đức của Thổ là cấy và gặt; đức của Mộc là cong và thẳng; đức của Kim là theo và đổi. Ngũ hành không đứng bên cạnh nhau mà thường xuyên tương tác qua lại với nhau thông qua hai con đường là Ngũ hành tương sinh ( Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ) và Ngũ hành tương khắc ( Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim Khắc Mộc, Mộc khắc Thổ). Sự tương tác giữa các hành sẽ làm cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, biến đổi và huỷ diệt không ngừng. Vốn là một học thuyết duy vật, lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên, nhưng về sau thuyết Ngũ hành dần dần chuyển sang lập trường duy tâm khi nó được dùng để giải thích cho các vấn đề chính trị, xã hội và bị giai cấp cầm quyền lợi dụng. 2. Nho gia a. Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN) Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập. Kinh điển của Nho gia thường được nói đến là Tứ Thư (Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh
  • 25. 25 Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu). Khổng Tử tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Ông viết Kinh Xuân thu, san định các kinh điển cổ như Dịch, Lễ nhạc… Học trò đời sau biên tập lời Khổng Tử dạy trước đó, chép thành cuốn Luận ngữ. * Quan niệm về thế giới: Quan niệm về vũ trụ, về thế giới của Nho gia chủ yếu xoay quanh ba vấn đề lớn là trời, mệnh và quỷ thần. - Về trời: Khổng tử có quan niệm dao động về trời. Theo Ông, vạn vật không ngừng biến đổi, sinh diệt theo đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là “thiên lý”, được hiểu là sự tương tác giữa hai lực âm và dương, là quy luật tự nhiên, cho nên trời chỉ là giới tự nhiên, vận hành theo bốn mùa: “trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, trăm vật sinh ra mãi”. Nhưng đạo hay thiên lý là cái mầu nhiệm, toàn năng, chi phối toàn thể vũ trụ mà ông không hiểu được, cho nên ông lại ví trời như thần: “có tội với trời thì còn cầu đảo vào đâu được nữa”. - Về mệnh trời: Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá theo những nguyên lý màu nhiệm, sâu kín, không ai cưỡng lại được, và ông gọi đó là thiên mệnh “sống chết tại mệnh, giàu sang là ý của trời’. Nhưng ông vẫn khuyên người ta không nên nhắm mắt theo mệnh mà mỗi người phải tự nỗ lực làm việc mới mong có mệnh tốt. - Về quỷ thần: Khổng Tử tin là có quỷ thần. Theo ông quỷ thần do khí thiêng tạo thành, nó có ở mọi nơi và chứng kiến mọi việc con người làm. Nhưng ông lại cho rằng quỷ thần không can thiệp vào công việc của con người, cho nên khuyên người ta kính thần mà không nên gần gũi quỷ thần. * Quan niệm về nhận thức: Nhận thức luận của Khổng tử chủ yếu hướng vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề tự nhiên. Ông đưa ra rất nhiều phạm trù đạo đức quan trọng như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, cung, khoan, mẫn, huệ, trung, hiếu… Ông cho rằng năng lực nhận
  • 26. 26 thức của con người là thiên bẩm, sinh ra đã có sự phân định sẵn: có thượng trí, có trung nhân, có hạ ngu. Ông rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con người. Ông cho rằng việc học có ba mục đích: Học để hiểu biết, học để hoàn thiện nhân cách, học để làm việc. Ông chủ trương “hữu giáo vô loại”, giáo dục không phân biệt đẳng cấp, bất cứ ai, hễ là loại trung nhân đều có thể dạy cho. Quy trình dạy học là “tiên học lễ, hậu học văn”. Học văn là học lục nghệ: thi, thư, xạ, ngự, dịch, nhạc. * Tư tưởng đạo đức - nhân sinh: - Vấn đề con người: Triết học của Khổng Tử là nền triết ọc nhân bản, chủ yếu xoay xung quanh các vấn đề về con người, tính người, đạo đức con người... + Về tính người: Không tử nói "tính tương cận, tập tương viễn", tức là tính của con người khi sinh ra vốn là giống nhau, gần nhau, nhưng do tập nhiễm mà thành ra xa nha, khác nhau, kẻ hiền người ác. Từ đó ông chủ trương giáo hoá để đưa người ta trở về bản tính gần nhau ban đầu. Như vậy Kổnh Tử coi tính của con người vốn là thiện. + Về các hạng người: Trong xã hội con người có sự phân biệt về nhân cách và địa vị thành ba hạng là quân tử, kẻ sĩ và tiểu nhân. Quân tử là những người hoàn thiện về nhân cách (theo Khổng Tử, người quâ tử phải có 9 điều: Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, khi nghe phải nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hoà, tướng mạo phải trang nghiêm, nói năng phải trung thực, làm việc phải trọng sự kính nể, điều gì còn nghi hoặc phải hỏi han, khi tức giận phải nghĩ đến hậu hoạ, khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa). Kẻ sĩ là những người học hành đỗ đạt để ra làm quan (Theo Mạnh Tử kẻ sĩ phải: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" - giàu sang không
  • 27. 27 quyến dũ, khéo khó khong đổi thay, uy vũ không khuất phục). Tiểu nhân là những kẻ không biết lễ nghĩa, chỉ chạy theo điều lợi. - Vấn đề đạo đức: Đạo được hiểu là con đường, quy luật tiến hoá của vạn vật. Đạo người được hiểu là con đường đúng đắn phải theo để xây dựng những mối quan hệ xã hội lành mạnh. Đức là tính chất của vạn vật, chỉ những đức tính tốt đẹp mà con người cần phải có. Thuận theo Đạo thì mới có Đức sáng. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử được khái quát trong luân thường đạo lý. Thường gồm các đức cơ bản: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, cung, khoan, mẫn, huệ. Luân là các quan hệ xã hội - đạo đức cơ bản gồm: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè - bạn. +Nhân là “ái nhân”, “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân”, “kỷ dục lập nhi lập thân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Lễ là tế lễ; là phong tục tập quán; là chuẩn mực đạo đức; là quy phạm pháp luật. Nghĩa là làm theo lẽ phải, không mưu lợi cho riêng mình; là việc ta phải làm, là mệnh lệnh luân lý tối cao cho nên nghĩa đối lập với lợi. Trí là soi xét thấu đáo vạn vật, hiểu biết điều hay lẽ phải. Tín là giữ lòng tin với mọi người... + Ngũ luân: Kinh lễ đã nêu 11 đức liên quan đến ngũ luân: vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng hoà, vợ thuận, trưởng có ân, ấu ngoan, bằng hữu giữ đức tín. * Tư tưởng chính trị - xã hội: Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ có nhiều biến động chính trị, danh thực tranh nhau, đạo lý lễ nghĩa bị suy đồi cho nên Nho gia đã đề xuất nhiều chính sách mang tính chất cải lương nhằm cải tạo xã hội đương thời. - Chính danh: Danh không chỉ là tên gọi mà trước hết là công dụng của vật, chức năng chức phận của mỗi người. Danh mà không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì việc làm không đúng, hình phạt không trúng, lễ nghĩa bị bỏ...Cho nên cần phải chính danh. Chính danh là gọi
  • 28. 28 tên sự vật đúng tên của nó, sử dụng sự vật đúng với công dụng của nó, làm việc đúng chức năng chức phận của mình. Chính danh là ngôn phải chính và thân cũng phải chính, cho nên lời nói phải đi đôi với việc làm. - Đức trị: Khổng Tử đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên nước phải lấy dân làm gốc. Vì vậy Khổng Tử chủ trương lấy lễ nghĩa thay thế cho pháp luật, lấy giáo hoá thay cho hình phạt cho nên ông đưa ra đường lối đức trị, nhân trị hay lễ trị. Đường lói đức trị của Khổng Tử bao gồm các yếu tố trị nức như: + Giáo hoá dân, dạy cho dân biết lễ nghĩa. + Dưỡng dân, nuôi dân cho no đủ, thực hiện chế độ phân phối quân bình. + Nêu gương đạo đức để dân tin, dân theo. Thực hện chính sách "thượng hiền". - Xã hội lý tưởng: Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến tranh bạo lực và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ thượng hiền. b. Mạnh Tử (372 - 289 Tr.Cn) Mạnh Tử tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước Châu. Ông vốn là học trò của Tử Tư – cháu nội của Khổng Tử; Tử Tư là học trò của Tăng Sâm - một trong số các học trò cũ của Khổng Tử. Mạnh Tử đã phát triển học thuyết của Khổng Tử theo xu hướng duy tâm. * Bản thể luận và nhận thức luận
  • 29. 29 - Bản thể luận: Mạnh Tử kế thừa yếu tố duy tâm trong học thuyết của Khổng Tử, loại bỏ những yếu tố duy vật tự phát của thuyết này, từ đó biến nó thành một thuyết duy tâm thần bí. + Cung giống như Khổng Tử, Mạnh Tử hoàn toàn tin vào mệnh trời và khuyên người ta phải phục tùng tuyệt đối mệnh trời. Ông cho rằng không có gì xảy ra mà không theo mệnh, ta nên tuỳ thuận mà chấp nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. + Mạnh Tử coi bản chất của vũ trụ là tâm linh, là vũ trụ đạo lí. Xuất phát từ quan điểm “thiên nhân cảm ứng” Ông cho rằng đạo trời đồng nhất với đạo lí của con người, con người là một tiểu vũ trụ bao hàm toàn bộ đại vũ trụ, cho nên “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”, vì thế chỉ cần hiểu được mình là hiểu được trời. - Nhận thức luận: + Nhận thức luận của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm tiên nghiệm. Ông cho rằng năng lực nhận thức của con người là tiên thiên, trời phú cho nên người ta biết được là nhờ vào tâm, đó là cái biết mà sinh ra đã biết, nên gọi là “sinh tri” (chẳng hạn biết về lễ, nghĩa, trí tín…; tâm biết được là nhờ vào “lương năng” - tức là không học mà biết và nhờ vào ‘lương tri” - tức là không nghĩ mà biết. Như vậy Mạnh Tử không tin vào cảm giác kinh nghiệm mà chỉ tin vào lí tính, tức là chỉ tin vào “tâm”, cho rằng phải nhờ “tâm” mới biết được bản tính của mình và vạn vật. + Vì vạn vật đều có đầy đủ trong ta cho nên con người chỉ cần tận tâm suy xét ở mình là có thể biết được trời đất, vạn vật “nếu biết được bản tính của mình là biết được trời rồi đó”. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng nhận thức bằng tâm. “Chỉ những bậc chí thành trong thiên hạ mới biết được cái tính của mình… Biết được tính của mình thì biết được tính của con người… Biết được tính của con người thì biết được tính của vạn vật… Biết
  • 30. 30 được tính của vạn vật thì có thể giúp vào việc sinh hoá của trời đất… có thể cung trời đất tham dự mọi việc” (Trung dung). * Triết lý đạo đức – nhân sinh - Về con người và đạo đức con người: +Mạnh Tử có quan niệm duy tâm về con người. Ông cho rằng con người gồm có hai phần là tâm và khí. Khí lưu hành trong vũ trụ, ngưnmg tụ lại thành hình nên mới có vạn vật và con người; khí lưu hành trong cơ thể nên con người mới có sinh trưởng. Tuy nhiên khí không tách rời tâm, tâm là “vị nguyên soái điều khiển khí”. Như vậy tâm quyết định khí, tinh thần quyết định vật chất. +Tâm và khí phải thống nhất với nhau nên cùng với “tồn tâm dưỡng tính” còn phải “dưỡng khí”. Muốn vậy phải kết hợp việc nghĩa với việc đạo; phải hiểu đạo lý, theo đạo và tập nghĩa, làm điều thiện; phải giáo dục đạo lý cho mọi người; phải theo chuẩn mực đạo lí của thánh hiền, theo đó người học phải kiên trì, cầu tiến và người dạy cũng phải luôn sửa mình làm gương. + Mạnh Tử quan tâm đến việc xây dựng một mẫu người lí tưởng: cương trực, cứng rắn, nhân nghĩa: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” – Giàu sang không quyến dũ, nghèo khó chẳng đổi thay, uy vũ không khuất phục. - Về tính người: Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người vốn là thiện – “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng do tập nhiễm mà thành ra khác nhau - kẻ thiện, người ác không phải do bản tính mà do tư dục, hoàn cảnh. Ông chỉ ra ba lí do để chứng minh cho tính thiện của con người: + Một là, Tính thiện được biểu hiện bằng tứ đức. Tứ đức được bắt nguồn từ tứ đoan, đó là: Lòng trắc ẩn - biết thương sót, đó là đầu mối của nhân; lòng từ nhượng - biết cung kính, đó là đầu mối của lễ; lòng tu ố - biết thẹn ghét, đó là đầu mối của nghĩa; long thị phi - biết phân biệt phải trái,
  • 31. 31 đúng sai, đó là đầu mối của trí. Ai sinh ra cũng có đủ tứ đoan, nếu biết gìn giữ, nuôi nấng nó sẽ trở nên thiện, nếu không sẽ thành ác. + Hai là, Người ta, ai cũng có đủ các “quan năng” để nhận biết, phân biệt phải, trái, đúng, sai, tốt, xấu cho nên ai cũng có thể trở thành thánh nhân. + Thứ ba, Tính thiện bắt nguồn từ tâm, tâm là cái trời phú, sinh ra đã có. Nếu con người biết “tồn tâm dưỡng tính”, giữ cho tâm được trong sáng thì nên thiện. Nếu để vật dục che lấp thì nên ác. Như vậy, muốn gìn giữ bản tính thiện của con người thì cần phải giáo dục đạo lí chứ không phải bằng hình phạt cưỡng bức. * Tư tưởng chính trị - xã hội - Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm, thần bí, bảo vệ cho bọn cầm quyền phản động. + Ông tuyên truyền chế độ “thần quyền”, cho rằng chính quyền là do trời trao cho các bậc anh minh để trị dân, cho nên các bậc vua chúa trị dân là thể theo chí trời. + Ông cho rằng thánh nhân là người quyết định lịch sử, làm thay đổi thời cuộc; theo chu kỳ cứ 500 năm một lần, do sự vận hành của ngũ hành, âm dương, lại xuất hiện thánh nhân trị vì thiên hạ. + Ông bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội, cho rằng theo thiên mệnh con người ta ngay từ khi sinh ra đã có sự phân hoá thành hai loại là lao tâm và lao lực, trong đó lao lực phải nuôi lao tâm, lao tâm thì trị lao lực. Do đó cần có sự phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự rõ rang. - Mạnh Tử cũng đề xuất nhiều chính sách thể hiện rõ tinh thần trọng dân. + Ông đưa ra thuyết “nhân chính” trong trị nước, phản đối chiến tranh thôn tính, đòi hỏi bọn quý tộc phải giảm hình phạt đối với dân. Ông kêu gọi
  • 32. 32 chế độ “bảo dân”, lo cho dân được no đủ, an bình, thực hiện chính sách “tỉnh điền” để cho dân có sản nghiệp, giảm thuế cho dân, giáo hoá dân… + Ông kêu gọi thực hiện chính trị trọng dân, đề cao vai trò, sức mạnh của dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, tức là dân là cái quý nhất, sau đó mới đến xã tắc sơn hà, cuối cùng mới là ngôi vua vì rằng có dân mới có nước, có nước mí có vua. Ông vua nào biết trọng dân, biết lo cho dân thì mới tồn tại, bằng không sẽ bị phế truất. Như vậy, trong trị nước Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa, phản đối bạo lực. Nhân nghĩa đối lập với điều lợi, vì theo ông nếu lấy lợi làm gốc sẽ làm cho người ta tranh giành lẫn nhau vì thế xã hội sẽ loạn. Huệ vương nước Lương hỏi Mạnh Tử: “Ngài có điều gì làm lợi cho nước Lương chăng?”. Mạnh Tử trả lời: “Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi. Chỉ nói đến điều nhân nghĩa mà thôi. Nếu bậc quốc vương nói rằng: làm thế nào cho lợi nước ta; quan đại phu nói rằng: làm thế nào cho lợi nhà ta; kẻ sĩ và thứ dân nói rằng: làm thế nào cho lợi than ta; kẻ trên người dưới ai nấy đều tranh nhau mối lợi ắt vận nước đã lâm nguy”. c. Tuân Tử (315 - 230 Tr.Cn) Tuân Tử tên thật là Huống, tự là khanh, người nước triệu. Ông phát triển học thuyết của Khổng Tử theo hướng duy vật. Ông chủ trương kết hợp lễ nghĩa với pháp luật trong việc trị nước. Tư tưởng này của ông về sau được học trò Hàn Phi kế thừa, phát triển trong đường lối Pháp gia. * Bản thể luận và nhận thức luận - Bản thể luận: Tuân Tử phát triển quan điểm duy vật, vô thần tiến bộ về thế giới. Ông phản đối tư tưởng về thiên mệnh và quỷ thần của Khổng, Mạnh. + Tuân Tử coi trời chỉ là giới tự nhiên, nó vận hành theo quy luật tự nhiên. Ông chia vũ trụ ra thành ba bộ phận là trời, đất và người, trong đó:
  • 33. 33 “Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị”, mỗi bộ phận này đều vận hành theo quy luật của riêng mình, cho nên việc trời, việc đất và việc người không lien quan đến nhau. “Trời vẫn làm theo lẽ thong thường, không vì vua Nghiêu mà để cho còn, chẳng vì vua Kiệt mà làm cho mất. Lấy sự trị mà đối phó với đạo ấy thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”. “Không phải vì người ta ngại giá rét mà trời bỏ mất mùa đông, chẳng phải người ta ngại xa xôi mà đất lại rút ngắn”. + Tuân Tử cho rằng mọi việc lành, giữ, an, nguy của con người không phải do mệnh, mà do chính hành vi của con người: “Chăm làm và bớt tiêu dùng thì trời cũng không làm cho nghèo được. Cái gốc bị bỏ, sự tiêu dung lại xa xỉ thì trời cũng không làm cho giàu được. Sự dinh dưỡng thiếu thốn, hành động lại không kịp thời thì trời cũng không làm cho chọn vẹn được. Trái với đạo trời, trái với tự nhiên mà làm càn, trời cũng không làm cho lành được”. Tiến xa hơn, Tuân Tử còn cho rằng con người có thể cải tạo được trời đất. Ông khuyên người ta tích cực làm việc, cải tạo tự nhiên để làm ra nhiều lúa gạo cho con người. + Tuân Tử thể hiện lập trường vô thần tiến bộ trong quan niệm về quỷ thần. Ông cho rằng quỷ thần không có thật, đó là do sự sợ hãi của con người tạo nên: “Đi dạo dưới trăng, cúi đầu trông thấy bóng của mình và vạn vật, lấy làm sợ mà cho là có quỷ thần”. Đối với các hiện tượng tự nhiên như sao sa, nhật thực, nguyệt thực, động đất… chỉ là sự biến hoá của âm dương, trời đất, nếu lấy làm lạ thì nên, lấy làm sợ thì không nên. Các hành vi cúng tế, nghi lễ, phong tục, tập quán… chỉ nên coi là hiện tượng văn hoá để duy trì, đừng nên lấy đó làm tin. + Tuân tử giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lí và khí, tâm và vật. Ông cho rằng khí là cái cấu thành nên vạn vật, phân biệt sự khác biệt giữa các vật chất vô sinh, hữu sinh và con người: nước, lửa có khí nhưng vô sinh
  • 34. 34 mệnh. Cây cỏ có sinh mệnh nhưng vô tri. Loài cầm thú có tri nhưng vô lễ nghĩa. Con người có đủ cả khí, sinh mệnh, tri giác và lễ nghĩa nên con người là cái quý nhất. Ở con người khí có trước và quyết định lí, vật có trước và quyết định tâm. - Nhận thức luận: Tuân Tử thể hiện lập trường duy vật về nhận thức, cho rằng nhận thức là nhận thức về thế giới vạn vật, rằng con người có thể nhận thức được các quy luật của thế giới. + Ông chia nhận thức ra thành 2 giai đoạn là cảm tính “thiên quan” và lí tính “tâm”. Nhận thức cảm tính dựa vào các thiên quan chỉ đem lại cho con người hiểu biết cái bề ngoài. Chỉ có tâm mới đem lại cho con người sự hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhưng hoạt động của tâm không thể thiếu hoạt động của các quan năng mà phải bắt nguồn từ kinh nghiệm. hai giai đoạn này còn bổ sung cho nhau: tâm phải lấy cảm giác làm cơ sở, cảm giác phải lấy tâm để uốn nắn. Như vậy ông đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai giai đoạn nhận thức. + Tuân tử còn giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa khái niệm và sự vật, giữa danh và thực, giữa cái chung và cái riêng. Khái niệm là phản ánh của sự vật, được rút ra từ các sự vật qua phân tích, so sánh, phân loại. Danh là để trỏ thực nên phải phù hợp với thực: “Danh là để trỏ thực, trên là tỏ rõ sang hèn, dưới là để phân biệt cái giống nhau và cái khác nhau”. Có danh chung để biểu thị sự giống nhau, có danh riêng để biểu thị sự dị biệt. Danh là do con người quy ước với nhau mà thành nên để tránh loạn danh cần có sự quy định chặt chẽ, phải dùng pháp luật, quyền thế mà định danh, phận cho rõ ràng. Cái chung, cái toàn bộ tồn tại thông qua cái riêng, cái cá biệt. Cái chung bao hàm đại khái cái riêng. Cái chung và cái riêng tuy khác nhau nhưng không tách rời nhau. * Tư tưởng chính trị - đạo đức
  • 35. 35 - Về tính người: Tuân Tử coi bản tính của con người là ác, là cá nhân, ích kỷ, vì mình trước hết: “nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu để cho người ta hành động theo bản tính tự nhiên, thoả mãn những dục vọng sinh lí của mình thì sẽ gây nên nạn trộm cướp, vô luân. Cho nên phải kết hợp giáo hoá và hình phạt để kìm chế tính ác: “Sinh ra khuôn uốn là vì có cái cây cong queo, bày ra dây mực là vì có sự không thẳng, lập quân thượng, sính lễ nghĩa là vì người có tính ác”. Tính ác không phải là vính viễn mà vẫn có thể sửa được nhờ vào giáo dục, rèn luyện và hình phạt tạo thành thoi quen làm thiện. - Về trị nước: Tuân Tử chủ trương kết hợp đức trị với pháp trị, giáo hoá với hình phạt trong việc trị nước. Ông cho rằng con người khác với cầm thú vì có tổ chức xã hội và có cuộc sống tập thể. Để duy trì điều đó và kiềm chế tính ác của con người tất yếu phải có lễ nghĩa và pháp luật, có nhà nước đứng ra để điều hành. Ông thừa nhận chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện sống, thói quen (chứ không phải khác nhau về quyền sở hữu tư liệu sản xuất). 3. Đạo gia Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (TK VI Tr.CN) với cuốn sách Đạo đức kinh. Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là Trang Tử (396 - 286 Tr.CN) với cuốn Nam hoa kinh. Ngoài ra còn có Đương Chu (395 – 335 Tr.Cn) chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh. a. Lão Tử (cuối thời Xuân thu) Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Đương hay còn gọi là Lão Đam. Ông là người nước Sở, vốn làm quan giữ sách cho nhà Chu, về sau từ quan về ở ẩn trong núi. Ông viết cuốn “Đạo đức kinh”. * Bản thể luận - Học thuyết về Đạo
  • 36. 36 + Nền tảng của toàn bộ triết học Lão Tử là học thuyết về Đạo. Đạo là bản thể, vừa là gốc, bản chất, vừa là quy luật chi phối vạn vật. Nó là một cái trừu tượng, hỗn độn, không rõ ràng, không đồng nhất với những cái đang tồn tại trong tự nhiên. “Có vật gì trong sự hỗn độn, có trước cả trời đất, vừa trống không vừa lặng yên đứng một mình không đổi, lưu hành khắp trốn không mỏi, có thể là mẹ của thiên hạ. Ta không biết nó tên gì nên mới đặt tên cho là Đạo và gượng cho là lớn” (Đạo đức kinh). + Đạo là sự thống nhất giữa “Vô” và “Hữu”, “Vô” là thể của Đạo, “Hữu” là dụng của Đạo. “Vô” là vô danh, vô phác, không có tên gọi, không có hình thể do đó “Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh” (Đạo đức kinh). Đạo còn là “Hữu” vì nó sinh ra vạn vật và tồn tại ngay trong vật, mỗi vật đều là biểu hiện của Đạo lớn. Tuy nhiên Đạo không đồng nhất với vạn vật vì vạn vật có hình thể và có tên gọi. + Đạo còn là quy luật chi phối vạn vật, không gì thoát ra được nên gọi là “Đạo pháp tự nhiên”. Trong quan niệm của Lão Tử, Đạo có bản chất vật chất vì Đạo sinh ra vạn vật hoàn toàn theo lẽ của tự nhiên, không có tư dục, không có mục đích. - Tư tưởng biện chứng + Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho mọi sự biến đổi của vạn vật. Sự biến đổi của vạn vật tuân theo 2 quy luật phổ biến là luật Quân bình và luật Phản phục. Luật Quân bình giữ cho các sự vật biến đổi theo xu hướng trở về trạng thái cân bằng. Luật Phản phục làm cho sự biến đổi diễn ra trong một vòng tròn khép kín, lặp đi lặp lại không ngừng. + Tư tưởng biện chứng của Lão Tử còn được thể hiện ở việc thừa nhận tính mâu thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào
  • 37. 37 nhau, chuyển hoá vào nhau “Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là còn có cái xấu... hoạ là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náu của hoạ”. * Nhận thức luận - Lão Tử có quan điểm bất khả tri về Đạo, cho rằng Đạo không thể nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thông thường mà phải bằng trực giác tâm linh. - Đạo gia coi thường nhận thức cảm tính và trí tuệ thông thường vì cho rằng chúng chỉ giúp con người nhận thức các hiện tượng, nhưng con người hiểu càng nhiều về vật thì càng xa với Đạo: “Càng đi xa càng biết ít. Người quân tử ngồi trong nhà không ra ngoài mà biết được việc thiên hạ, không nhòm qua khe cửa mà biết được đạo trời”. * Tư tưởng đạo đức – nhân sinh - Triết lí vô vi: Nền tảng của tư tưởng chính trị đạo đức của Đạo gia là triết lý “vô vi”. “Vô vi” có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, cho nên tất cả những gì là giả tạo, nhân tạo đều phải được bãi bỏ. - Về đạo đức: Trong cuộc sống, Đạo vô vi đòi hỏi phải tôn trọng bản tính tự nhiên của người, của vật, không được dùng sức mạnh để chiếm đoạt, sống hoà đồng với tự nhiên. Các chuỷân mực đạo đức cơ bản là: cần kiệm, từ ái, không tranh giành. * Tư tưởng chính trị - xã hội: - Vô vi trị: Trong chính trị, Đạo vô vi đòi hỏi phải từ bỏ những cái trói buộc con người, do con người tự nghĩ ra như pháp luật, lễ nghĩa, danh lợi...Đạo gia chủ trương: “vô vi nhi trị”- Nếu trong xã hội mọi người đều không làm gì thì xã hội tự nó thịnh trị. - Xã hội lí tưởng: đó là một xã hội nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có ngựa xe không ngồi, có gươm đao không dùng, bỏ văn tự, người ta trở về
  • 38. 38 thuật thắt nút ghi dấu, hai nước cạnh nhau vẫn nghe thấy gà gáy, chó sủa mà đến già chết vẫn không qua lại… b. Đương Chu (khoảng 395 – 335 Tr.Cn). Đương Chu, tự là Tử Cư, là người nước Vệ. Ông chủ yếu bàn đến các vấn đề triết lí nhân sinh. * Bản thể luận Đương Chu mang quan niệm duy vật không triệt để về thế giới. Ông cho rằng mọi cái đều xảy ra theo nguyên lí tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không do lực lượng thần thánh hay ma quỷ chi phối. Mọi cái, theo bản tính tự nhiên, có sinh ắt có diệt, có sống ắt có chết: “Đời sống vạn vật, con người theo bản tính tự nhiên tự sinh, tự diệt; than thể tự nó khoẻ mạnh, tự nó bạc nhược”. Tuy nhiên cái nguyên lí tất yếu là cái mầu nhiệm, khó hiểu nên ông gọi đó là “thiên mệnh”. * Triết lí nhân sinh - “Tồn ngã”: Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình. Con người có thiên tính “tồn ngã”: “Con người, bản chất giống trời đất, có đức tính của Ngũ hành, là loài tối linh trong vạn vật. Thân ta không phải của ta, nhưng đã có chúng rồi thì không thể diệt chúng được”. - Để tồn ngã thì phải “quí sinh” và “trọng kỉ”. + “Quí sinh” là quí mạng sống của mình, nhưng đồng thời phải tôn trọng sự sống của người và vạn vật cho nên không dung bạo lực để xâm chiếm, không can thiệp thô bạo vào bản tính tự nhiên của vạn vật và người khác. Do đó con người phải sống hoà đồng với tự nhiên, coi ta như vật, coi vật như ta, không phân biệt sống - chết, giàu – nghèo, quí - tiện… Như vậy quí mạng sống nhưng cũng sãn sang đón nhận cái chết.
  • 39. 39 + “Trọng kỉ” là phải tìm cách đáp ứng mọi nhu cầu, thị hiếu tự nhiên của mình. Từ đó Ông đề cao quyền tự do cá nhân, kêu gọi chủ nghĩa khoái lạc, sống hết mình, nhưng đồng thời không làm phương hại đến người khác. - “Vị ngã”: là vì mình trước hết. Đây là cốt lõi của triết lí nhân sinh của Đương Chu. + “Vị ngã” là yêu mình trước hết: “Yêu ngươì nước gần hơn người nước xa, yêu người trong nước hơn người ngoài nước, yêu cha mẹ hơn người ngoài, yêu mình hơn hết”. + “Vị ngã” là sống theo đúng bản tính tự nhiên của mình, không ham sống, ghét chết; không luỵ vật, không bị danh vọng, tiền tài tri phối; không bị ràng buộc bởi luân lí, lễ nghĩa cứng nhắc. + “Vị ngã” là sống vì mình mà không hại người, không cho ai hay lấy của ai cái gì: “Đương Chu này, mất một sợi lông chân mà làm lợi cho thiên hạ cũng không cho, mà có đem cả thiên hạ phụng dưỡng bản thân mình cũng không nhận”. Cho nên vị ngã không phải là chủ nghĩa cá nhân ích kỉ. * Tư tưởng chính trị - xã hội Đương Chu xuất phát từ tư tưởng “vị ngã” mà phản đối mọi đường lối đức trị, pháp trị vì chúng hạn chế tự do cá nhân, trái với đạo tự nhiên: “Người ta dung cách thưởng phạt để khuyên ngăn, dung danh vọng và pháp luật để cấm đoán; người ta canh cánh đua nhau để được cái hư danh một thời, cầu cạnh hư vinh sau khi chết; cứ nhớ tới cái phải trái mà không dám cho tai mắt được theo sở thích của mình, làm mất cái lạc thú trước mắt, không được thoả thuê phóng túng lúc nào cả. Như vậy có khác gì gong cùm không?”. Ông phản đối bọn Nho, Mặc chỉ ham sống lâu, ham danh vọng, địa vị, ham tiền tài nên không được thanh thản, luôn sợ quỉ thần, sợ kẻ có quyền… Ông kêu gọi trị nước phải bằng đạo vô vi, vị ngã: “Nếu mọi người đều
  • 40. 40 không chịu mất một cái lông chân mình, đều không muốn làm lợi cho thiên hạ thì thiên hạ tự trị”. c. Trang Tử (369 – 286 Tr.Cn) Trang Tử tên thật là Trang Chu, người nước Tống. Ông từng làm quan Tất viên cho xứ Mông, sau đó từ quan về sống cuộc sống thanh bạch, giản dị. Ông viết tác phẩm “Nam hoa kinh”. * Bản thể luận và nhận thức luận - Học thuyết về Đạo: Kế thừa học thuyết về Đạo của Lão Tử, Trang Tử đã biến học thuyết này thành duy tâm, thần bí. + Nếu như Đạo của Lão Tử là sự thống nhất giữa vô và hữu thì Đạo của Trang Tử là hư vô: “Trong cái không sinh cái có, cái có không thể lấy cái có làm cơ sở”. + “Đạo sinh ra tinh thần, còn tinh khí mới sinh ra hình thể”, như vậy đạo là tinh thần, khác với Lão Tử coi đạo là vô thức. + Đạo sinh ra vạn vật và tồn tại thong qua vạn vật, cho nên mỗi vật, dù lớn hay bé, sang hay hèn… đều là biểu hiện của Đạo, nên Đạo tồn tại mọi nơi. + Sinh ra từ Đạo tự nhiên nên vạn vật có bản tính tự nhiên của mình, chúng biến đổi không ngừng, sinh diệt, sống chết theo lẽ tự nhiên. - Nhận thức luận: Nhận thức luận của Trang Tử chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Lão Tử và Huệ Tử - người thuộc môn phái Danh gia. + Giống như Lão Tử, Trang Tử có quan niệm bất khả tri về Đạo. Ông cho rằng Đạo không thể nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thong thường: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn là Đạo. Đạo chẳng có thể thấy được, thấy được không phải là nó nữa. Có thể nào lấy trí để hiểu cái hình dung của cái không có hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho nó”. Nên để hiểu Đạo phải bằng con đường trực giác
  • 41. 41 tâm linh, muốn vậy phải sống hòa đồng với thiên nhiên (câu chuyện “đọc thánh nhân”). + Trong quan niệm về vạn vật Trang tử chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tương đối của Huệ Thi, phát triển nó thành hoài nghi luận, xóa nhòa danh giới giữa các vật. Ông cho rằng sinh ra từ đạo tự nhiên nên mỗi người, mỗi vật đều có bản tính tự nhiên của mình: Cái là lớn so với vật này lại là bé so với vật khác, cái là tốt với người này lại là xấu với người khác… “Không gì lớn bằng sợi long mùa thu mà núi Thái sơn lại là nhỏ. Không ai thọ bằng đứa trẻ chết yểu mà Bành tổ lại là yểu”. Vì vạn vật là tương đối nên nhận thức của con người về chúng cũng chỉ là tương đối. Từ đó Trang Tử cho rằng mọi tri thức đều là chủ quan, không có chân lí khách quan (Mao Đường và Lệ Cương là những người đẹp nổi tiếng, nhưng nhìn thấy thì chim bay, cá lặn, thú bỏ chạy, vậy là không đẹp). Từ đó Ông kêu gọi không nên phân biệt mà coi tất cả là “đồng nhất thể”: “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”. * Tư tưởng chính trị - đạo đức - Thể theo bản tính tự nhiên con người phải sống vô vi, vô sự, không can thiệp vào trạng thái tự nhiên của vạn vật: “Trâu ngựa có bốn chân, thế là tự nhiên. Ràng đầu ngựa, xỏ mũi trâu, thế là người. Cho nên bảo chớ lấy người hại trời, lấy việc hại mệnh”. - Trong đạo trị nước Ông cũng chủ trương vô vi, vô sự, phản đối việc dùng lễ nghĩa, pháp luật trói buộc con người như trói buộc trâu ngựa, như thế là trái với tự nhiên. 4. Mặc gia a. Mặc Tử (479 – 381 Tr.Cn)
  • 42. 42 Người sáng lập ra đường lối Mặc gia là Mặc Tử, tên là Địch. Tư tưởng của Ông được thể hiện trong cuốn sách Mặc Tử gồm 53 thiên. * Bản thể luận và nhận thức luận - Mặc Tử phản đối thiên mệnh, cho rằng con người tự mình quyết định vận mệnh của mình. Theo Mặc Tử, mọi sự giàu hay nghèo, sống hay chết, hoạ hay phúc không phải do số mệnh quy định mà là do hành vi con người gây nên, “do sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh”. Ông cho rằng chỉ cần chăm làm và tiết kiệm trong tiêu dung thì sẽ no đủ. Còn nếu tin vào mệnh trời và chờ mệnh thì trên sẽ không lo việc chính trị mà xã hội thành ra loạn, dưới sẽ không chịu làm việc mà thành ra nghèo đói. - Không tin vào mệnh nhưng lại tin vào Trời và quỷ thẩn. Mặc Tử cho rằng chí Trời là nguyên tắc tối cao cho hành vi của con người, Trời và quỷ thần luôn công minh ban thưởng cho những người làm tốt và trừng phạt những kẻ làm xấu: “Vua vũ, vua Văn, vua Thang làm việc, trên thì tôn Trời, giữa thờ quỷ thần, dưới yên lòng dân cho nên ý Trời nói rằng: Người này gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu, làm lợi hết thảy những kẻ mà ta muốn làm lợi… Bởi vậy Trời mới khiến cho sang thì làm đến thiên tử, giàu có cả thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ làm việc, trên thì chê Trời, giữa chê quỷ thần, dưới rẻ người. Cho nên ý Trời nói rằng: Người này phân biệt những kẻ ta yêu ra để mà ghét, còn những kẻ ghét người thì hắn cho được rộng rãi, những kẻ hại người thì hắn cho được hậu hỹ. Bởi vậy Trời mới khiến cho không hết tuổi thọ, không được trọn đời”. - Nhận thức luận: Mặc Tử đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm và thực tiễn. Ông đưa ra thuyết Tam biểu, lấy đó làm tiêu chuẩn cho chân lý: “Bản”(gốc) là dựa vào chí của trời và việc làm của thành vương đời trước;
  • 43. 43 “nguyên”(nguồn) là dựa vào tai mắt trăm họ; “dụng” là đem áp dụng vào thực tế xem có đem lại lợi cho trăm họ hay không. * Tư tưởng chính trị - xã hội: - Mặc Tử đưa ra thuyết “Kiêm ái”, kêu gọi mọi người bằng tình yêu thương lẫn nhau mà duy trì trật tự xã hội. Kiêm ái là gồm yêu tất thảy, không phân biệt thân hay sơ, sang hay hèn, xa hay gần, ta hay người. Kiêm ái là thể theo chí trời, là có lợi cho tất cả mọi người “kiêm tương ái, giao tương lợi”, cho nên kiêm là đúng, biệt là sai. - Để kiêm ái thì phải thống nhất được ý chí của mọi người từ trên xuống dưới, phải thực hiện chính sách “Thượng đồng”, tức là dưới nhất nhất phải nghe theo trên, “điều gì bề trên bảo là đúng thì cũng phải cho là đúng, điều gì bề trên nói là sai thì cũng phải bảo là sai...”. - Để thực hiện “Thượng đồng” thì phải thực hiện chính sách “Thượng hiền”, tức là phải lựa chọn người hiền tài ra làm quan giúp nước và vua phải là người hiền tài nhất b. Phái hậu Mặc Phái Hậu Mặc thời Chiến quốc gồm năm đại diện là Tường Lý, Tường Phu, Khổ Hoạch, Đăng Lăng, Sỹ dĩ. - Phái Hậu Mặc phát triển quan điểm duy vật về thế giới, coi vật chất là bất diệt, thừa nhận vận động diễn ra trong không gian và trong thời gian, coi vận động là vận động cơ học và tìm cách phân loại các hình thức vận động máy móc. Họ cho rằng thuộc tính của sự vật là khách quan chứ không phụ thuộc vào chủ quan con người. - Phái Hậu Mạc phát triển quan điểm duy vật về nhận thức. + Họ cho rằng nhận thức phải có 2 yếu tố là hoạt động cảm nhận của các quan năng (Ngũ lộ) và tác động của các vật thể lên chúng. Họ chia nhận thức thành 2 giai đoạn là cảm tính (Ngũ lộ) và lý tính (Tâm), trong đó tâm
  • 44. 44 mới đem lại sự hiểu biết sâu sắc vì tâm lien kết các cảm giác thành chỉnh thể (Một hòn đá trắng và cứng, nhờ mắt mà biết là trắng, nhờ thân mà biết là cứng, muốn biết nó vừa trắng vừa cứng phải nhờ tâm liên kết). + Họ cho rằng tri thức có ba nguồn gốc: “Văn tri” nhờ người khác truyền thụ mà co; “thân tri” do giác quan đêm lại; “thuyết tri” nhờ suy luận mà có. + Có bốn loại hiểu biết là: Hiểu biết về “danh” – tên gọi, hiểu biết về “thực” - vật, hiểu biết về “hợp” – danh tương ứng với thực, hiểu biết về “hành động” – thông qua hành động thực tế để xem danh có tương ứng thực hay không. Họ đi gần đến quan niệm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý với quan niệm “phù hợp thì thắng”. + Họ phát triển các phép suy luận lôgíc với 6 phương pháp biện luận là: phép hoặc, phép giả, phép bắt chước, phép so sánh, phép tương tự và phép suy. 5. Pháp gia a. Sự hình thành tư tưởng Pháp gia Người ta cho rằng Quản Trọng (Khoảng thế kỉ thứ 6 Tr.Cn) là người đầu tiên bàn về đường lối Pháp trị. Quản Trọng cho rằng trị nước phải coi trọng 4 điều là: luật, hình, lệnh và chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người mà dân không tranh. Lệnh là để cho dân biết việc mà làm. Hình là để trừng phạt những kẻ làm trái luật và lệnh đã ban. Chính là sửa cho dân theo đường ngay, lẽ phải. Các nhà Nho phản đối dung pháp luật trong trị nước, tuy nhiên họ cúng thừa nhận có lễ cho hang đại phu và có hình dành cho thứ dân, trong đó “Lễ không đến thứ dân, hình không đến đại phu”.
  • 45. 45 Các đại biểu của Pháp gia thời Chiến quốc đưa ra những chủ trương trị nước khác nhau: Thận Đáo chủ về Thế, Thân Bất Hại chủ về Pháp, Thương Ưởng chủ về Thuật. b. Tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử (280 – 233 Tr.Cn) Ông là đại biểu tiêu biểu nhất của Pháp gia. Hàn Phi Tử là công tử nước Hàn, vốn là học trò của Tuân Tử. Ông làm quan cho nước Tần, được vua Tần trọng dụng nhưng sau đó bị tể tường Lý Tư dèm pha, bị bắt bỏ ngục và bức uống thuốc độc mà chết. Tư tưởng của Hàn Phi được thể hiện trong cuốn sách Hàn Phi Tử gồm 55 thiên. - Bản thể luận của Hàn Phi: + Ông chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng duy vật và vô thần của Lã Tử và Tuân Tử. Ông cho rằng Đạo là quy luật phổ biến tri phối vạn vật. Mỗi vật đều chịu sự tri phối bởi đạo, nhưng đều có cái lý của riêng mình, trong đó Đạo là bất biến còn lý thì luôn biến đổi, vì thế con người phải tuỳ cơ ứng biến cho hợp với lý của vạn vật. + Tự nhiên không có ý chí, không do thần thánh tạo ra, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý chí của con người hay thần thánh. Con người không thể làm thay đổi quy luật tự nhiên. + Tự nhiên không tri phối hoạt động của con người mà chính hành vi con người quyết định vận mệnh của mình. + Không có quỷ thần thật mà quỷ thần là do những dủi do trong cuộc sống của con người đẻ ra, do đó nếu con người không bị ốm đau bệnh tật, chăm làm và tiết kiệm thỉ quỷ thần không thể quấy nhiễu con người. - Quan niệm về lịch sử: Hàn Phi coi động lực của sự phát triển lịch sử là sự phát triển dân số và của cải nhiều hay ít. Ông cho rằng thời Nghiêu, Thuấn con người thì ít,
  • 46. 46 của cải trong tự nhiên thì nhiều nên hoà thuận. Ngày nay người thì đông, của cải thì ít nên tranh giành, chiến tranh… Ông chia lịch sử thành ba thời kỳ: Thời Thượng cổ con người đã biết dung cây làm nhà, dung lửa nấu chin thức ăn. Thời Trung cổ con người đã biết làm thuỷ lợi, khắc phục thiên tai. Thời Cận cổ xuất hiện giai cấp, chiến tranh… - Tư tưởng Pháp trị: + Hành Phi chứng minh tính tất yếu của pháp luật. Ông chỉ ra 2 lý do: Thứ nhất, ngày xưa dân ít, của cải nhiều, không có tranh giành nên không cần hình phạt. Ngày nay dân nhiều, của cải ít nên tranh giành, chiến tranh nên cần hình phạt. Hơn nữa pháp luật cũng phải luôn thay đổi cho phù hợp với cái lý của sự vật. Thứ hai, do tính của con người vốn là ác, là luôn “mưu lợi cho riêng mình”, cho nên cần dung pháp luật để uốn nắn: “Trị nước không cậy người tự làm thiện mà khiến người không được làm trái.Cậy người tự làm thiện thì trong nước chẳng được mười người, khiến người không được làm trái thì một nước có thể khiến cho yên. Nếu phải đợi gỗ thẳng mới làm tên bắn thì trăm đời chưa có tên, nếu phải đơih cho gôc tròn mới làm bánh xe thì trăm đời chưa có bánh xe”. + Hàn Phi cho rằng trị nước phải dùng cả pháp, thuật và thế. “Pháp” là luật pháp được ghi thành văn bản bắt buộc, công khai cho tất cả mọi người. “Thuật” là nghệ thuật dùng người, điều hành công việc của kẻ cầm quyền. “Thế” là uy của kẻ cầm quyền khiến mọi người phải nể sợ mà tuân theo. 6. Danh gia
  • 47. 47 Đây là trường phái nguỵ biện, chuyên dùng lối chơi chữ để tranh biện. Họ thường đưa ra những mệnh đề mâu thuẫn, ngược đời để tranh luận với người đời. Tuy vậy phái này cũng có những tư tưởng biện chứng sâu sắc. a. Huệ Thi (Khoảng 370 – 310 Tr.Cn) Ông là người nước Tống, từng làm tướng quốc nước Nguỵ, vốn là bạn thân của Trang Chu. - Cơ sở biện thuyết của Huệ Thi là chủ nghĩa tương đối. Ông cho rằng vạn vật đều có cái giống nhau và cái khác nhau, có chứa chấp các mặt đối lập cho nên mọi sự phân biệt lớn hay bé, cao hay thấp, dài hay ngắn… đều là tương đối: “Cái lớn nhất không có gì ở ngoài, gọi là đại nhất; cái nhỏ nhất không thể chứa gì bên trong; gọi là tiểu nhất”. “Cái không có độ dày thì không thể chứa thêm được gì, nhưng độ lớn của nó là ngàn dặm”. “Trời thấp bằng đất, núi cao bằng đầm”. - Vạn vật luôn biến đổi cho nên không gian, thời gian cũng chỉ là tương đối: “Mặt trời vừa đứng bóng, vừa xế tà”. “Hôm nay đi sang nước Việt mà hôm qua đã đến”. “Ta biết chỗ giữa của thế giới – Nó ở phía Bắc của nước Yên (nước Yên ở cực bắc) và phía Nam của nước Việt (nước Việt ở cực Nam)”. “Phương Nam không giới hạn mà có hạn”. “Vòng liên hoàn có thể cởi”. - Vì tất cả đều là tương đối cho nên con người không thể nhận thức đúng được sự vật, không có tiêu chuẩn khách quan cho chân lý, từ đó đi đến quan điểm: “Rộng yêu muôn vật, trời đất là một thể”. “Cái giống nhau lớn mà khác với cái giống nhau nhỏ. Vạn vật ở một phương diện đều giống nhau, ở một phương diện đều khác nhau, đấy gọi là giống nhau và khác nhau lớn”. - Tư tưởng biện chứng của Huệ Thi được thể hiện ở chỗ ông thừa nhận sự biến đổi và tính mâu thuẫn của thế giới vạn vật.