SlideShare a Scribd company logo
1 of 29
LỜI MỞ ĐẦU
     Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện
sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều
phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói,
văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại.
Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa
còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
     Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng
lớn. Biết bao nhiêu hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho
đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành, học thuyết của
Khổng Tử, Lão tử... Thế nhưng trong các học thuyết ấy,
không ai có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà
người phát khởi phát là Khổng tử là có vị trí quan trọng hơn
hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung và
các nước Đông Nam Á nói riêng. Kể từ lúc xuất hiện từ vài
thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ
Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và
luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ
phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: Nho giáo hẳn
phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có
thể có sức sống mạnh mẽ đến như vậy.
      Vào thế kỷ X trên bán đảo Đông Dương có 3 vương quốc: Đại Việt,
Cham Pa, Khmer, lực lượng ngang nhau. Dần dần Đại Việt chiếm ưu thế,
vừa đủ sức chống lại phong kiến phương Bắc, vừa khai hoang Nam Tiến,
át hẳn 2 vương quốc kia. Phải chăng đạo Nho đã đóng một vai nhất định
trong sự hình thành tương quan lực lượng ấy. Phải chăng chúng ta đã du
nhập đạo Nho của Trung Quốc rồi sau đó biến thành một công cụ chống
laị. Biện chứng lịch sử là như thế. Nho giáo là công cụ để phong kiến
phương Bắc dùng để lệ thuộc các dân tộc khác, nhưng vừa là công cụ
giúp các dân tộc chống lại Trung Quốc.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      1
Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của Nho giáo đối với tiến trình
phát triển của nho giáo đối với Việt Nam nên chọn đề tài “Những tư
tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa ở
nước ta hiện nay”. Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 2
phần:
     Phần I: Tiến trình phát triển của Nho giáo và một số nội dung chính
của nó.
     Phần II: ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn hoá Việt Nam.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      2
Phần I
VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT
             SỐ NỘI DUNG TÍCH CỰC CỦA NÓ.


     I. VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO.
     Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới: đó là
Khổng Tử. Người ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể
gọi là quá lời, trước đây hơn 2000 năm, đại sử học gia Tư Mã Thiên khi
đi thăm Khúc Phụ quê hương của Khổng Tử từng cảm khái viết: “Khổng
Tử áo vải, truyền hơn 10 đời, được các học trò coi là tổng sư, từ thiên tử,
vương hầu đến thứ dân đều coi ông là bậc chí thánh”.
      Năm 1982, một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý
luận đạo đức của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà
còn ảnh hưởng tới nhân loại” Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu
tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên
cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ
tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi
giảng dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san
định, biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
     Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu,
thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư
hầu, cục thể xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi
người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân
thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng
thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư
tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống
tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu
sắc tới xã hội Trung Quốc.
    Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa
phong phú sức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chi và thiết lập một trật tự




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                         3
nghiêm cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ
thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc.
     Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng
không được các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu
học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân Tử truyền bá rộng về sau. Trải
qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng
tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính thống.
Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thu nhân cách hoàn thiện và học thuyết
nhân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân Thu lợi dụng
âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp
nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học
cho Nho học.
      Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh
truyện để lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện
thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu
đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ
Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán
đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử
đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường
Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn
và đạo của Chu Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không
thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các
triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung.
     Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời
kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn
lập tức chủ trì nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng
thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo
Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường
gọi đó là Lý học.
     Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ
đời nhà Đường, trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu
Đôn Di, Thiệu Ung, Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                        4
đến Chu Hi đời Nam Tống là người tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư
tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín
như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, hấp
thu thêm các học thuyết tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự
nhu yếu cho xã hội quân chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các
kinh điển Nho gia như Luận ngữ, Mạnh Tử trở thành những sách giáo
khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến và là tiêu chuẩn pháp
định trong khoa cử của chính phủ. Điều ấy xem ra xa với chủ trương
thiện lương, trí tuệ, ngoan cường của Khổng Tử ở thời Xuân Thu, góp
phần tạo nên một hình ảnh Khổng Tử khác mang màu sắc vì yêu cầu giữ
thiên lý mà diệt mất nhân đục, đạo mạo bàn xuông dẫn đến tiêu diệt cá
tính, thậm chí hư ngụy, giả dối nữa.
      Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của
Trần Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng
đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông.
Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu
sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc.
     Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều
đua nhau đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực
trong mọi giai tầng xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc
Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn
hoá của tín ngưỡng và tập tính.


     II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO
     Chúng ta tìm hiểu vì Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn
được cải biến được bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời
kỳ. Nhiều học giả đã tốn rất nhiều giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn
cãi chung quanh những câu chữ trong sách vở của Nho giáo từ trước tới
nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan, giản đơn và
phiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều có thể trích dẫn những lời lẽ
rất hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng Khổng
Tử - người sáng lập ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong học



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      5
thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa
hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy cũng là lúc giằng co,
giành giật giữa chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học
được cải biến để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa
đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm hiểu Nho học theo lối trích
dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm hiểu Nho học
không thể không xem xét trên giác độ phương pháp duy vật lịch sử...
Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư tưởng
mà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể
trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn.
    Không thể có một thứ Nho giáo chung cho các thời đại, một thứ
Nho giáo nhất thành, bất biến ở khắp mọi nơi.
     Khi Khổng Tử đề ra học thuyết của ông và đi chu du thiên hạ để
mong được sử dụng thì ông đã thất bại. Điều đó không có nghĩa rằng xã
hội Đông Chu đã xấu hơn xã hội thời Ngũ đế tam vương mà chỉ có nghĩa
rằng những tư tưởng của ông muốn bảo vệ nền chuyên chính của quý tộc
chủ nô không còn phù hợp nữa với xã hội và uy thế chính trị đang đang
dần dần thuộc về tầng lớp địa chủ mới.
      Khi học thuyết của Khổng Tử được đặt lên vị trí độc tôn thì không
có nghĩa rằng vua nhà Hán đã có đạo đức, nhân nghĩa hơn nhà Tần mà
chỉ vì chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán đang đòi hỏi một hệ tư
tưởng thích hợp với nền kinh tế tiểu nông và bộ máy phong kiến quan
liêu của nó.
      Khi Nho giáo đã mang hình thức duy tâm tư biên với Lý học đời
Tống thì không phải lịch sử đã tạo ra mấy nhân vật “lỗi lạc” mà chỉ vì
giai cấp phong kiến đã suy tàn đã cần thiết phải đổi mới các hệ tư tưởng
cũng suy tàn như nó. Nho giáo lúc đó hầu như đã kiệt sức và được bổ
sung bằng giáo lý của Phật, Lão.
     Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến
đổi. Từ Tam đức của Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ở
Hán Nho, “Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ
thuyết” của Chu Đôn Di, Lý Khí ở Chu Hi... Tất cả đều xuất phát từ một



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       6
gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như vậy hệ tư tưởng Nho giáo trải
qua hơn 2000 năm là vô cùng phức tạp. Thế thì hệ tư tưởng Nho giáo là
tư tưởng gì? và tại sao dưới những hình thức rất phức tạp, tương phản và
mâu thuẫn, bao giờ tư tưởng Nho giáo cũng giữ địa vị thống trị.
     1. Tư tưởng Nho giáo là gì?
      Ở Trung Quốc xã hội phong kiến vẫn giữ lại rất nhiều di tích của xã
hội thị tộc và xã hội nô lệ, biểu hiện trong pháp luật và phong tục dưới
nhiều hình thức như quan niệm về sở hữu ruộng đất thuộc về quốc gia,
quan niệm tôn pháp trong gia tộc, ở trong một xã hội như vậy thì vua là
tổ của thị tộc, là cha của dân, mà cha là trời của con, chồng là trời của vợ.
Để tồn tại trên cơ sở sản xuất đặc thù á Đông (phương thức sản xuất
Châu á) giai cấp địa chủ thống trị cần phải giữ những quan niệm ấy, do
đó chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Chính là những khái niệm luân lý tuyệt đối
trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Trong hình thái ý thức phong kiến
hệ giữa người với người chỉ được ghép vào 5 loại (ngũ luân), ấy là: vua
tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Trong 5 cặp ấy thì hai cặp anh
em, bạn bè chỉ là nhành ngọn, mà 3 cặp kia mới là cội gốc. Những tính
lớn của nhân loại, theo quan niệm phong kiến là nhân, nghĩa, lễ, trí (về
sau có thêm chữ tín) cũng là phát sinh trên cơ sở của ngũ luân. Như
Khổng Tử nói rằng hiếu đễ là gốc của chữ Nhân.
     K. Marx nói rằng tư tưởng của chế độ phong kiến thì lấy đạo đức,
danh dự làm hình thái đại biểu. Nó không giống với tư tưởng của thời đại
tư bản chủ nghĩa ở chỗ tư tưởng này lấy tự do bình đẳng làm hình thái đại
biểu. Marx đã cho thấy rõ bản chất của tư tưởng phong kiến.
     Ở đây chữ đạo đức và danh dự cũng đồng nghĩa với chữ lý luận và
danh phận trong Nho giáo mà tự do, bình đẳng là tư tưởng cá nhân của xã
hội tư sản.
     Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội
phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thường, hay tam
cương ngũ thường là những cái tuyệt đối. Theo bộ sậu chính thường của
tư tưởng đạo đức thì đạo đức quan phải diễn dịch từ vũ trụ quan, nhưng
nho giáo thì làm ngược trở lại, nó xuất phát từ ngũ luân, ngũ thường rồi



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                           7
đem gán những cái ấy cho vũ trụ, cho thượng đế : nó đã luân lý hoá cả vũ
trụ, cả thượng đế, vũ trụ và thượng đế của Nho giáo đều nhuốm màu luân
lý. Đối với nho giáo thì luân lý cương thường là hằng tồn, là phổ biến.
Nho giáo không có lịch sử quan, tiến hoá luận. Đối với nó xã hội phong
kiến không phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý
phong kiến không chỉ là một hình thái ý thức của giai đoạn ấy, như họ
nói: “Quân thần chi nghĩa vô sở đào ư thiên địa chi gian”
     Hay là: “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư)
     Đạo ở đây tức là tam cương, ngũ thường.
      Nhưng qua các thời đại Nho giáo phải chống đỡ một cuộc đấu tranh
lý luận đối với những hệ thống khác, như triết học của Mặc Tử, Lão Tử,
biện chứng pháp của danh gia, xã hội học của pháp gia, hình nhi thượng
của Hoa nghiêm tông, thiền tông... Thế mà tư tưởng của Khổng Tử thì rất
là nghèo nàn, thiếu thốn về nhận thức luận, vì phương pháp luận, vì tự
nhiên quan... Vì vậy Nho gia đời sau cảm thấy phải xây đắp cho nó một
cơ sở lý luận ít ra cũng “dễ coi”. Họ tìm được những yếu tố triết học
trong Nho gia như sách Trung Dung, Đại học, Mạnh Tử, Kinh Dịch. Họ
lại vay mượn thêm của các triết học và tôn giáo, khác những cái gì có thể
dung hoá được, rồi mỗi người, mỗi phái xây dựng một học thuyết làm cơ
sở lý luận cho Nho giáo. Do đó đã từng đã từng hiện ra cảnh tượng hỗn
độn, phức tạp trong các chi phí như nói ở trên chi phái của Nho giáo có
thể là nhất nguyên luận hay nhị nguyên luận, chủ quan luận hay khách
quan luận, duy lý chủ nghĩa hay trực quan chủ nghĩa, đức trị chủ nghĩa
hay công lợi chủ nghĩa... nhưng tất cả đều thống nhất trên quan điểm luân
thường, cương thường. Về vũ trụ quan, thì Chu Hi là một nhà nhị nguyên
luận. Hai yếu tố cấu thành vũ trụ là lý (quy luật) vũ khí (vật chất), biểu
hiện trong con người thiên thành thiên lý và nhân dục. Nhưng thiên lý là
gì? là tam cương ngũ thường.
     Cho nên, đúng như K. Marx nói, bản chất của tư tưởng phong kiến
nói chung là đạo đức và danh dự mà bản chất của Nho học là luân lý,
danh phận tức là tam cương, ngũ thường.
     2. Vấn đề tính luận trong Nho giáo.



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                        8
Tính luận là vấn đề trung tâm của Nho giáo. Đó là vấn đề tính người
thiện hay ác thảo luận trên 2000 năm mà không có học giả nào tìm ra một
giải pháp hoàn hảo. Chữ Nhân của Khổng Tử là một phạm trù rất mờ mịt
tối tăm. Đến Mạnh Tử lại thêm chữ Nghĩa đặt ngang hàng đối với chữ
Nhân, rồi lại thêm vào cặp Nhân, Nghĩa ấy chữ Lễ và chữ Trí mà còn gọi
là Tứ đoan, tức là 4 cái mầm thiện trong con người... Như thế nội dung
của chữ thiện trong Nho học là lễ nhân, nghĩa, lễ trí và thêm chữ tín của
nhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường. Ngũ thường có liên quan mật thiết
với ngũ tín của nhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường. Vậy ta có thêm bằng
tam cương, ngũ luận, mà trọng tâm trong ngũ thường là tam cương, ngũ
thường, là bản tính của con người, tức là nói tam cương, ngũ thường
không phải riêng cho dân tộc nào, một giai đoạn lịch sử nào mà nó là phổ
biến và hằng thường. Tính là do trời sinh. Trời sinh ra tính thiện, thì trời
cũng là thiện, cũng là tam cương ngũ thường, cho nên tam cương ngũ
thường là thường kinh (quy luật hằng thường) của trời đất, là thông nghị
(định lý phổ biến) của cổ kim (Đổng Trọng Thư). Nhà Nho đã luân lý
hoá vũ trụ và thượng đế như vậy, do đó phát sinh vấn đề gay go không
thể giải quyết được. Làm sao mà chứng minh được bản chất của vũ trụ là
cương thường. Vũ trụ nhân sinh đã là thiện thì ác ở đâu mà sinh ra, và
làm sao giải thích được do lại của tội ác trong xã hội loài người.
     Tuy vậy các chi phí của Nho gia vẫn cố gắng giải quyết vấn đề ấy.
Mạnh Tử chủ trương tính thiện, Tuân Tử thì chủ trương tính ác. Dương
Hùng thì chủ trương thiện ác lẫn lộn. Hàn Dũ chủ trương tính chia 3
bậc(thượng, trung , hạ).
      Trong phái “tính lý” đời Tống thì Liêm Khê nói rằng “tâm chia làm
thế dụng và động tĩnh; thể của tâm là vô tư, dụng của tâm là tư thông (tư
tưởng thông suốt); tĩnh là chì chính, động là minh đạt (sáng suốt)... Động
mà chưa có hình ở chỗ hữu vô, gọi là cơ. Cơ có thiện ác “minh đạt” có
thật là động không? Dẫu tĩnh hay động đều là chí minh đạt cả, làm sao nó
lại là cái cơ của cái ác được? Để thuyết minh thiện ác, Trương tác phân
biệt hai thứ tính: thiện địa tinh và khí chất tinh, ác, tập quán xấu ảnh




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                          9
hưởng đến khí chất tính mà sinh ra. Nhưng tập quán xấu phát sinh từ
trong xã hội.
     Nếu bản tính của loài người là thiện thì sao có tập quán xấu được.
Từ Trương Tái trở đi, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi đều dùng nhị nguyên
luận để thuyết minh thiện ác.
     Trình Hạo phân biệt Hính với khí bẩm: khí bẩm là cái động của tính.
Vạn vật đều do khí bẩm cả nhưng phân lượng không giống nhau, có khi
vừa phải có khi thái quá, có khí bất cập, thái quá và bất cập tức là cái ác.
Trình Di thì cho rằng lý tức là tính, khi tức là tình. Tính là thiện nhưng
khi nó phát ra hỉ, nộ, ai, lạc thì gọi là tình thì có khi thiện, thì có khi ác.
Chi Hy cũng nối góc Y Xuyên mà cho rằng bản nhiên tính là thiên lý, mà
tác dụng của tính là tình là khí. Thế nhưng họ đều không thuyết minh
được vì sao mà tính động và vì sao khí động mà sinh ra khác nhau.
     3. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống.
     Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến
cuộc đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó.
Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất
sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch
mịch”. Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta
sinh ra ở cõi đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa
không “Người muốn biết người chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện
đó không phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia
ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ,
huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của
con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! “Phải vụ
lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta” (Luận ngữ)
khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những chuyện
mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ
“kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái “thiện
đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời
mặc dù ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu
đời, vui đời, sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                           10
khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả
dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời
là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử
chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú
vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành
đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý
tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn
dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm
sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó
mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của
lịch sử.
     4. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo.
     Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm
người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến.
Chúng ta đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh
giá hành vi của con ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ
với người khác và trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang
tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức
điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ
thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳn
nhau” (Enghen).
     Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh
cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa
bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng.
Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa.
     Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào,
nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng
chính là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không thi hành
với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả.
Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình
muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành
tốt hơn mà không làm cho người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải.



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       11
đường hay, việc đúng. Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường
đi của người”; (Cáo Tử thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là
đường đi ngay thẳng của người” (Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói
theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâm
thương).
     Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc
phải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với
người xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội.
     Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào ngũ
thường. Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối trụ cột của lễ giáo
phong kiến. Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trìu tượng hoá.
Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho
hai chữ “nhân nghĩa” một màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người
có “tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh;
đức của người có nhân, nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người tương cảm với 4
đức của trời.
     Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số
thời điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ
“nhân nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung
từng thời kỳ có thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến
không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ
pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá
trình phát triển càng ngày nó càng bị trừu tượng hoá trên quan điểm siêu
hình.
     Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm
tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử,
tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy
không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho
những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                        12
nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của
kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      13
Phần II
  ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT
                       NAM


     I. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM.
     Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư
duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự
thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc.
      Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát
triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. ở cùng
một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài
dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung
quanh. Sự thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu,
Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như thời nay. Những dân tộcc ở bất cứ đâu,
bất cứ thời nào muốn sống, muốn nâng cao mức sống của mình không
thể không học tập những dân tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc
nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo
của riêng mình không thèm học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình.
Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng như vói khoa học
xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá Trung Quốc là một điều
tất yếu.
      Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời
kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật
giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ
mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị
vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho
giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan
trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi
giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy
một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội,
đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      14
hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do
đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo.
      Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong
trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với
ý định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen
với đạo Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều
vấn đề mà đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói
lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình.
Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một
phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên
được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý
Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học thông kinh truyện,
xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán,
giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặc các nghi lễ phẩm
phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti đẳng
cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin
tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên”
“Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với
chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương,
nhà Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng
được nhấn mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như
thế nào thì sử sách đã nêu rõ.
      II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT
NAM.
      1.Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc
tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
      Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh
đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng
ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc
đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm
xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       15
Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và
tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và
nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến.
      Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây
dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết
cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ
làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi
đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến
tập quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ
chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến
Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng
lợi đều quan tam tới việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xây
dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương
Bắc.
     Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định
chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm
Bắc thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai
cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc
tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho
giáo là cơ sở lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy
giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến
việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ
chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương... Đó là những vấn
đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý
thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ
thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam
trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời
Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt
động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước.
     Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự
của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       16
lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có
sự khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà
Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ
rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của
chế độ phong kiến đã trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn
chiến giữa các tập đoàn thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong
kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã
hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý
thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo.
      Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn
liền với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở
hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã
hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ
lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn
nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm,
phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan
hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình
có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào
cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp
phần củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia
đình.
     Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước
ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại
bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ
sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức
này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để
tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm
nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy
chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử
ấy.
    Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở
khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       17
đó muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con
người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho
đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như
các thế hệ nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho
giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong
xã hội Việt Nam.
    2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với nền văn
xã hội Việt Nam:
   2.1/ Tích cực :
   - Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây
   dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp
   phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng
   cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
   - Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là
   người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua,
   nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận
   để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo
   dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo
   coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu
   tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con
   người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học
   nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao
   vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu
   học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn
   hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
   - Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành,
   tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm
   cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      18
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền
   chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã,
   thôn, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng
   mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo
   Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
   - Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm
   quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh
   mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không
   mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà
   vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.
   - Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng
   liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với
   chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều
   cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh
   bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.
   2.2/ Tiêu cực :
   - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp
   nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông
   nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu
   mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo
   dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những
   giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển
   nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không
   thể phát triển.
   - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn
   đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
   - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong
   tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      19
những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh.
   Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một
   thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây
   vốn xuất hiện sau.
   2.3/ Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt
   Nam                                                                   :
   Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng
   góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
   nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của
   đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ
   vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ
   19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược
   của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức
   quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về
   tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt
   Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc
   hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó
   nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
   - Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ.
   Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo,
   không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp
   bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung
   thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí
   Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
   lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
   - Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề
   trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là
   “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       20
tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân,
   biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng
   tổ quốc.
   - Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh
   nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp
   núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc
   hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực
   chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.
   - Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa,
   người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về
   phía trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.
   - Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với
   mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung
   của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ
   cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới.
   Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng
   tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều
   kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp
   động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên
   chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh
   thần mưu trí và sáng tạo.


     2.1/ Ảnh hưởng trong chế độ phong kiến:
      Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá
tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm
cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh
Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ
tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển.



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                     21
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện
tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới.
Là một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi
người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực
tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc
ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho
giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ
đầy đủ hơn.
     Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì
cũng vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công
cụ thống trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ
XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp
bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi
đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của
những người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai
cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích
cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho
giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng
suy yếu sau này của nó.
      Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ
nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư
tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy
thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho
mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu
Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và
điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi
sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực
khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng
tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một
tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn
chương để tiến vào con đường cử nghiệp.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                        22
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các
phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi
đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho
những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh
vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ
không hề đếm xỉa đến các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về các
ngành sản xuất và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về
sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất
của xã hội.
     Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo
Việt Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của
đời sống và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ
chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã
hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người
được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn
đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng.
     Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó
đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp
nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm
tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở
nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.
     2.2/ Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ngày
nay của Việt Nam:
     Hồ chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại
của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện
trong tư tưởng và nhiều câu chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người
đã vượt qua những hạn chế của Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Người đa sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm :
“lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng
nước và giữ nước. Người cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa
người tài để đảm đương việc nước. Qua 2 cuộc kháng chiến người đã
nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về



Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                       23
phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân đạo của con người Việt Nam.
Người mượn câu nói của Mạnh Tư để nêu lên khí phách của người cách
mạng : “ giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay,
uy lực không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu nói của Mạnh Tử
trong Thiên Đằng Văn Công – Ha : “ Phu quí bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất” Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt
Nam giành lại được độc lập và thống nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn
vết thương chiến tranh xây dựng mọi mặt của đất nước theo định hướng
XHCN, trên con đường tiến tới một tương lai tốt đẹp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại thường xuyên đụng đến
nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng ta nhiều
bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều hay y
tốt như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng
có trường hợp nho giáo trở nên thọc gậy bánh xe. Hiện nay Việt Nam
đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong quan hệ
xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu
thuẫn không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh
thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại
truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, Đảng ta chủ
trương giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát huy sáng tạo, độc
lập tư chủ, chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “là những điều
cốt yếu của nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính đáng,
cạnh tranh lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta
trong công cuộc xây dựng đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh
doanh.
     Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
gia đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn còn những quan
điểm coi thường phụ nữ, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung,
ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên bị phong tỏa, dồn nén trong vòng tứ
đức không phát huy được hết năng lực của mình. Truyền thống quan hệ
cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư
tưởng của nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      24
Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia
đình, trong một dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau,
khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của gia đình và dòng họ. Những
nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha, những gia
huấn được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông ba cha mẹ
trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà
thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng
khít hơn mối quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt
đẹp của tình người nảy sinh từ đó. Sự giáo dục của Nho giáo lấy lễ nghĩa
làm biện pháp đã đạt được tới mức độ sâu sắc ở chổ nó thành tiêu chuẩn
để đánh giá hành vi của con người. Nho giáo đã huy động được dư luận
toàn thể xã hội, biết quí trọng người có lể và khinh gét người vô lể và
điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người. Vi phạm lể trở thành
điều đau khổ, đáng sỉ nhục, thậm chí đến mức phải chết chứ không bỏ lễ.
Ảnh hưởng của nho giáo trong lịch sử phát triển xa hội, truyền thống văn
hóa của nưóc ta vẫn tiếp tục. Đây là một sự thật không phủ nhận được.
Vấn đề "gạn đục khơi trong" Nho giáo để phục vụ mục đích tích cực cho
đất nước ta hiện nay trong sự nghiệp công ngiệp hóa hiện đại hóa là vấn
đề cần làm ngay và làm càng sớm càng tốt
   Tiêu cực :
   - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp
   nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông
   nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu
   mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo
   dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những
   giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển
   nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không
   thể phát triển.
   - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn
   đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      25
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong
tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành
những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều
này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian
phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện
sau
      Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem
lại không ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm
hãm sự phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam.




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                    26
KẾT LUẬN


     Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia
một phần vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần dân tộc và vào sự thành
văn hoá dân tộc, cho nên chúng ta cần thiết phải nghiên cứu Nho giáo để
xem nó ảnh hưởng đối việc văn hoá nước ta như thế nào.
      Từ Nho giáo chuyển sang chủ nghĩa Mác qua một cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài và một biến chuyển về tư tưởng cơ bản, từ một hệ tư
tưởng duy tâm lấy ý chí con người làm gốc sang chủ nghĩa duy vật với
phương pháp khoa học, từ tưởng tôn ti trật tự gia trưởng sang dân chủ, từ
dân tộc sang tư tưởng Mác xít phải đòi hỏi một quá trình dai dẳng. Tất
nhiên rất nhiều điểm trong Nho giáo đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, thậm chí
là phản động đang kèm hãm quá trình phát triển của dân tộc ta nhất là tại
các khu nông thôn. Nhưng chúng ta không hề hổ thẹn khi nói rằng chúng
ta đi lên chủ nghĩa xã hội là kế tục truyền thống nhà nho xưa, và nếu ghét
cay ghét đắng chế độ phong kiến khi đã thối nát thì cũng không thể
không trân trọng đến kẻ sĩ đời trước, và khi đánh giá lại, nếu học thuyết
tư tưởng ngày nay chúng ta hơn hẳn thế hệ các sĩ phu thời trước, nhưng
về nhân cách vẫn còn phải học nhiều phải chăng câu “phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất của nhà Nho không còn
giá trị hay sao?




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      27
TÀI LIỆU THAM KHẢO


     1. Luận ngữ - Thánh kinh của người Trung Hoa
     2. Mạnh Tử
     3. Nho học ở Việt Nam
     4. Hồ Chí Minh toàn tập
     5. Chống Đuyrinh - Enghen
     6. Các nhân vật văn hoá vĩ đại Trung Quốc




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                    28
MỤC LỤC

Lời mở đầu
Phần I: Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo và một số nội
dung tích cực của nó
I/ Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo
II/ Một số nội dung chính của Nho giáo
1. Tư tưởng Nho giáo là gì?
2. Vấn đề tính luận trong Nho giáo
3. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống
4. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo
Phần II: Ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn hoá Việt Nam
I/ Quá trình du nhập của Nho học vào Việt Nam
II/ Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Việt Nam
1. Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc
tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến
2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối nền văn hóa -
xã hội Việt Nam nói riêng và Tỉnh Trà Vinh
Kết luận
Tài liệu tham khảo




Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành
                                                                      29

More Related Content

What's hot

Tâm lý học
Tâm lý họcTâm lý học
Tâm lý họcTS DUOC
 
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhcongatrong82
 
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hương
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt HươngBài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hương
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hươngcuonganh247
 
Bài tiểu luận vế dân tộc
Bài tiểu luận vế dân tộcBài tiểu luận vế dân tộc
Bài tiểu luận vế dân tộcHarry Cliff
 
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viênTìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viênHy Vọng
 
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.com
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.comTronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.com
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.comThùy Linh
 
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởngTiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietrobodientu
 
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Sùng A Tô
 
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)Hiền Nhân
 
Nho Giáo và văn hóa Việt Nam
Nho Giáo và văn hóa Việt NamNho Giáo và văn hóa Việt Nam
Nho Giáo và văn hóa Việt Namnguyenhoangtri11ta
 
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa họcTài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa họcDương Nphs
 
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.comThùy Linh
 

What's hot (20)

Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
 
Tâm lý học
Tâm lý họcTâm lý học
Tâm lý học
 
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬTPHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
 
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIXLuận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
 
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
 
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hương
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt HươngBài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hương
Bài giảng: Văn hóa chính trị - TS Bùi Việt Hương
 
Bài tiểu luận vế dân tộc
Bài tiểu luận vế dân tộcBài tiểu luận vế dân tộc
Bài tiểu luận vế dân tộc
 
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viênTìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
Tìm hiểu về tình trạng sống thử của sinh viên
 
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.com
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.comTronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.com
Tronj bộ câu hỏi tâm lý học chi tiết có đáp án - tincanban.com
 
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởngTiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng
Tiểu luận Tư tưởng triết học của nho giáo và sự ảnh hưởng
 
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
 
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đạiLuận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
 
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
 
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)
Lich su giao duc viet nam (nguyen thi thanh)
 
Nho Giáo và văn hóa Việt Nam
Nho Giáo và văn hóa Việt NamNho Giáo và văn hóa Việt Nam
Nho Giáo và văn hóa Việt Nam
 
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa họcTài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
Tài liệu giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học
 
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com
56 câu hỏi tự luạn và đáp án môn tư tưởng hồ chính minh - tincanban.com
 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌCNGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAYTín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Tuyên Quang, HAY
 
Phố cổ hội an
Phố cổ hội anPhố cổ hội an
Phố cổ hội an
 

Similar to Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa ở nước ta hiện nay”

Triết học cổ đại
Triết học cổ đạiTriết học cổ đại
Triết học cổ đạiHuong Phung
 
Nguyễn ái quốc với nho giáo
Nguyễn ái quốc với nho giáoNguyễn ái quốc với nho giáo
Nguyễn ái quốc với nho giáoAya Lê
 
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đại
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đạiĐề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đại
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đạiDịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đôngHọc thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đôngMan_Ebook
 
Giáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninGiáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninVuKirikou
 
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...vnhdng13
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngHoa Huong Duong
 
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdfladucsdh231
 
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdf
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdfSachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdf
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdfThngThn2
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmacleninPhi Phi
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhTrung Huynh
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết họcnataliej4
 

Similar to Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa ở nước ta hiện nay” (20)

Những Tư Tưởng Cơ Bản Của Nho Giáo Và Ảnh Hưởng Đến Nước Ta.doc
Những Tư Tưởng Cơ Bản Của Nho Giáo Và Ảnh Hưởng Đến Nước Ta.docNhững Tư Tưởng Cơ Bản Của Nho Giáo Và Ảnh Hưởng Đến Nước Ta.doc
Những Tư Tưởng Cơ Bản Của Nho Giáo Và Ảnh Hưởng Đến Nước Ta.doc
 
Nội Dung Cơ Bản Của Học Thuyết Đạo Đức Chính Trị - Xã Hội Của Khổng Tử.docx
Nội Dung Cơ Bản Của Học Thuyết Đạo Đức Chính Trị - Xã Hội Của Khổng Tử.docxNội Dung Cơ Bản Của Học Thuyết Đạo Đức Chính Trị - Xã Hội Của Khổng Tử.docx
Nội Dung Cơ Bản Của Học Thuyết Đạo Đức Chính Trị - Xã Hội Của Khổng Tử.docx
 
Triết học cổ đại
Triết học cổ đạiTriết học cổ đại
Triết học cổ đại
 
7771
77717771
7771
 
Nguyễn ái quốc với nho giáo
Nguyễn ái quốc với nho giáoNguyễn ái quốc với nho giáo
Nguyễn ái quốc với nho giáo
 
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đại
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đạiĐề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đại
Đề tài: Học thuyết đức trị của Khổng Tử và giá trị của nó đối với thời hiện đại
 
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít BêcơnTiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
 
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đôngHọc thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
Học thuyết ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương đông
 
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.doc
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.docsự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.doc
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.doc
 
Giáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - LeninGiáo trình Triết học Marx - Lenin
Giáo trình Triết học Marx - Lenin
 
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...
[123doc] - bai-giang-lich-su-tu-tuongcac-hoc-thuyet-quan-ly-giang-vien-nguyen...
 
Baigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thươngBaigiangtriethoc ngoại thương
Baigiangtriethoc ngoại thương
 
Phat giao
Phat giaoPhat giao
Phat giao
 
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
2023 - TT - CHUONG 1 - KHAI LUAN VE TRIET HOC.pdf
 
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdf
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdfSachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdf
SachMoi.Net-khong-tu-tinh-hoa-vu-dan.pdf
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
 
Luanngu
LuannguLuanngu
Luanngu
 
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.docx
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.docxsự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.docx
sự hình thành các tông phái phật giáo thời nhà đường tại trung quốc.docx
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết học
 

More from Huynh Loc

Vo anhkhoa dh9nh
Vo anhkhoa dh9nhVo anhkhoa dh9nh
Vo anhkhoa dh9nhHuynh Loc
 
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1Huynh Loc
 
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7Huynh Loc
 
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412Dh9 tc phan hong duc-dtc083412
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412Huynh Loc
 
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7Huynh Loc
 
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7Huynh Loc
 
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438Huynh Loc
 
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464Huynh Loc
 
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451Dh9 tc tran thi thao_dtc083451
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451Huynh Loc
 
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433Dh9 tc phan thi mai_dtc083433
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433Huynh Loc
 
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405Huynh Loc
 
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408Huynh Loc
 
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494Huynh Loc
 
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423Huynh Loc
 
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422Huynh Loc
 
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450Huynh Loc
 
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319Dh9 qt le minh nhut-dqt083319
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319Huynh Loc
 
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334Huynh Loc
 
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293Huynh Loc
 
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242Huynh Loc
 

More from Huynh Loc (20)

Vo anhkhoa dh9nh
Vo anhkhoa dh9nhVo anhkhoa dh9nh
Vo anhkhoa dh9nh
 
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1
Le duc hoang minh dkd083016 hoidong1
 
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7
Dh9 tc tran thi ngoc han-dtc083419-26.7
 
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412Dh9 tc phan hong duc-dtc083412
Dh9 tc phan hong duc-dtc083412
 
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7
Dh9 tc pham thi hong nha-dtc083441-26.7
 
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7
Dh9 tc le thi tuyet nhung-dtc083443-26.7
 
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438
Dh9 tc le thi ngoc- dtc083438
 
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464
Dh9 tc tran van tuyen_dtc083464
 
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451Dh9 tc tran thi thao_dtc083451
Dh9 tc tran thi thao_dtc083451
 
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433Dh9 tc phan thi mai_dtc083433
Dh9 tc phan thi mai_dtc083433
 
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405
Dh9 tc nguyenvanchi_dtc083405
 
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
Dh9 tc nguyen thi thuy duyen_dtc083408
 
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494
Dh9 tc nguyen thi ngoc ha_dtc073494
 
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423
Dh9 tc nguyen thi kim hoa_dtc083423
 
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422
Dh9 tc nguyen thanh hieu_dtc083422
 
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450
Dh9 tc ly phuong thao_ dtc083450
 
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319Dh9 qt le minh nhut-dqt083319
Dh9 qt le minh nhut-dqt083319
 
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334
Dh9 qt nguyen ngoc thuy_dqt083334
 
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293
Dh9 qt1 nguyen mnh duc-dqt083293
 
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242
Dh9 nh vo thi ngoc huyen-dnh083242
 

Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa ở nước ta hiện nay”

  • 1. LỜI MỞ ĐẦU Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới. Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao nhiêu hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử, Lão tử... Thế nhưng trong các học thuyết ấy, không ai có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà người phát khởi phát là Khổng tử là có vị trí quan trọng hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có thể có sức sống mạnh mẽ đến như vậy. Vào thế kỷ X trên bán đảo Đông Dương có 3 vương quốc: Đại Việt, Cham Pa, Khmer, lực lượng ngang nhau. Dần dần Đại Việt chiếm ưu thế, vừa đủ sức chống lại phong kiến phương Bắc, vừa khai hoang Nam Tiến, át hẳn 2 vương quốc kia. Phải chăng đạo Nho đã đóng một vai nhất định trong sự hình thành tương quan lực lượng ấy. Phải chăng chúng ta đã du nhập đạo Nho của Trung Quốc rồi sau đó biến thành một công cụ chống laị. Biện chứng lịch sử là như thế. Nho giáo là công cụ để phong kiến phương Bắc dùng để lệ thuộc các dân tộc khác, nhưng vừa là công cụ giúp các dân tộc chống lại Trung Quốc. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 1
  • 2. Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của Nho giáo đối với tiến trình phát triển của nho giáo đối với Việt Nam nên chọn đề tài “Những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa ở nước ta hiện nay”. Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 2 phần: Phần I: Tiến trình phát triển của Nho giáo và một số nội dung chính của nó. Phần II: ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn hoá Việt Nam. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 2
  • 3. Phần I VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG TÍCH CỰC CỦA NÓ. I. VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO. Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới: đó là Khổng Tử. Người ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời, trước đây hơn 2000 năm, đại sử học gia Tư Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ quê hương của Khổng Tử từng cảm khái viết: “Khổng Tử áo vải, truyền hơn 10 đời, được các học trò coi là tổng sư, từ thiên tử, vương hầu đến thứ dân đều coi ông là bậc chí thánh”. Năm 1982, một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý luận đạo đức của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tới nhân loại” Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc. Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú sức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chi và thiết lập một trật tự Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 3
  • 4. nghiêm cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân Tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thu nhân cách hoàn thiện và học thuyết nhân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học. Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung. Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi đó là Lý học. Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời nhà Đường, trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 4
  • 5. đến Chu Hi đời Nam Tống là người tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, hấp thu thêm các học thuyết tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự nhu yếu cho xã hội quân chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho gia như Luận ngữ, Mạnh Tử trở thành những sách giáo khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ. Điều ấy xem ra xa với chủ trương thiện lương, trí tuệ, ngoan cường của Khổng Tử ở thời Xuân Thu, góp phần tạo nên một hình ảnh Khổng Tử khác mang màu sắc vì yêu cầu giữ thiên lý mà diệt mất nhân đục, đạo mạo bàn xuông dẫn đến tiêu diệt cá tính, thậm chí hư ngụy, giả dối nữa. Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc. Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính. II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO Chúng ta tìm hiểu vì Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn được cải biến được bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kỳ. Nhiều học giả đã tốn rất nhiều giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn cãi chung quanh những câu chữ trong sách vở của Nho giáo từ trước tới nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan, giản đơn và phiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều có thể trích dẫn những lời lẽ rất hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong học Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 5
  • 6. thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy cũng là lúc giằng co, giành giật giữa chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học được cải biến để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm hiểu Nho học theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm hiểu Nho học không thể không xem xét trên giác độ phương pháp duy vật lịch sử... Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư tưởng mà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn. Không thể có một thứ Nho giáo chung cho các thời đại, một thứ Nho giáo nhất thành, bất biến ở khắp mọi nơi. Khi Khổng Tử đề ra học thuyết của ông và đi chu du thiên hạ để mong được sử dụng thì ông đã thất bại. Điều đó không có nghĩa rằng xã hội Đông Chu đã xấu hơn xã hội thời Ngũ đế tam vương mà chỉ có nghĩa rằng những tư tưởng của ông muốn bảo vệ nền chuyên chính của quý tộc chủ nô không còn phù hợp nữa với xã hội và uy thế chính trị đang đang dần dần thuộc về tầng lớp địa chủ mới. Khi học thuyết của Khổng Tử được đặt lên vị trí độc tôn thì không có nghĩa rằng vua nhà Hán đã có đạo đức, nhân nghĩa hơn nhà Tần mà chỉ vì chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán đang đòi hỏi một hệ tư tưởng thích hợp với nền kinh tế tiểu nông và bộ máy phong kiến quan liêu của nó. Khi Nho giáo đã mang hình thức duy tâm tư biên với Lý học đời Tống thì không phải lịch sử đã tạo ra mấy nhân vật “lỗi lạc” mà chỉ vì giai cấp phong kiến đã suy tàn đã cần thiết phải đổi mới các hệ tư tưởng cũng suy tàn như nó. Nho giáo lúc đó hầu như đã kiệt sức và được bổ sung bằng giáo lý của Phật, Lão. Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Từ Tam đức của Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ở Hán Nho, “Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ thuyết” của Chu Đôn Di, Lý Khí ở Chu Hi... Tất cả đều xuất phát từ một Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 6
  • 7. gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như vậy hệ tư tưởng Nho giáo trải qua hơn 2000 năm là vô cùng phức tạp. Thế thì hệ tư tưởng Nho giáo là tư tưởng gì? và tại sao dưới những hình thức rất phức tạp, tương phản và mâu thuẫn, bao giờ tư tưởng Nho giáo cũng giữ địa vị thống trị. 1. Tư tưởng Nho giáo là gì? Ở Trung Quốc xã hội phong kiến vẫn giữ lại rất nhiều di tích của xã hội thị tộc và xã hội nô lệ, biểu hiện trong pháp luật và phong tục dưới nhiều hình thức như quan niệm về sở hữu ruộng đất thuộc về quốc gia, quan niệm tôn pháp trong gia tộc, ở trong một xã hội như vậy thì vua là tổ của thị tộc, là cha của dân, mà cha là trời của con, chồng là trời của vợ. Để tồn tại trên cơ sở sản xuất đặc thù á Đông (phương thức sản xuất Châu á) giai cấp địa chủ thống trị cần phải giữ những quan niệm ấy, do đó chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Chính là những khái niệm luân lý tuyệt đối trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Trong hình thái ý thức phong kiến hệ giữa người với người chỉ được ghép vào 5 loại (ngũ luân), ấy là: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Trong 5 cặp ấy thì hai cặp anh em, bạn bè chỉ là nhành ngọn, mà 3 cặp kia mới là cội gốc. Những tính lớn của nhân loại, theo quan niệm phong kiến là nhân, nghĩa, lễ, trí (về sau có thêm chữ tín) cũng là phát sinh trên cơ sở của ngũ luân. Như Khổng Tử nói rằng hiếu đễ là gốc của chữ Nhân. K. Marx nói rằng tư tưởng của chế độ phong kiến thì lấy đạo đức, danh dự làm hình thái đại biểu. Nó không giống với tư tưởng của thời đại tư bản chủ nghĩa ở chỗ tư tưởng này lấy tự do bình đẳng làm hình thái đại biểu. Marx đã cho thấy rõ bản chất của tư tưởng phong kiến. Ở đây chữ đạo đức và danh dự cũng đồng nghĩa với chữ lý luận và danh phận trong Nho giáo mà tự do, bình đẳng là tư tưởng cá nhân của xã hội tư sản. Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thường, hay tam cương ngũ thường là những cái tuyệt đối. Theo bộ sậu chính thường của tư tưởng đạo đức thì đạo đức quan phải diễn dịch từ vũ trụ quan, nhưng nho giáo thì làm ngược trở lại, nó xuất phát từ ngũ luân, ngũ thường rồi Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 7
  • 8. đem gán những cái ấy cho vũ trụ, cho thượng đế : nó đã luân lý hoá cả vũ trụ, cả thượng đế, vũ trụ và thượng đế của Nho giáo đều nhuốm màu luân lý. Đối với nho giáo thì luân lý cương thường là hằng tồn, là phổ biến. Nho giáo không có lịch sử quan, tiến hoá luận. Đối với nó xã hội phong kiến không phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người, luân lý phong kiến không chỉ là một hình thái ý thức của giai đoạn ấy, như họ nói: “Quân thần chi nghĩa vô sở đào ư thiên địa chi gian” Hay là: “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư) Đạo ở đây tức là tam cương, ngũ thường. Nhưng qua các thời đại Nho giáo phải chống đỡ một cuộc đấu tranh lý luận đối với những hệ thống khác, như triết học của Mặc Tử, Lão Tử, biện chứng pháp của danh gia, xã hội học của pháp gia, hình nhi thượng của Hoa nghiêm tông, thiền tông... Thế mà tư tưởng của Khổng Tử thì rất là nghèo nàn, thiếu thốn về nhận thức luận, vì phương pháp luận, vì tự nhiên quan... Vì vậy Nho gia đời sau cảm thấy phải xây đắp cho nó một cơ sở lý luận ít ra cũng “dễ coi”. Họ tìm được những yếu tố triết học trong Nho gia như sách Trung Dung, Đại học, Mạnh Tử, Kinh Dịch. Họ lại vay mượn thêm của các triết học và tôn giáo, khác những cái gì có thể dung hoá được, rồi mỗi người, mỗi phái xây dựng một học thuyết làm cơ sở lý luận cho Nho giáo. Do đó đã từng đã từng hiện ra cảnh tượng hỗn độn, phức tạp trong các chi phí như nói ở trên chi phái của Nho giáo có thể là nhất nguyên luận hay nhị nguyên luận, chủ quan luận hay khách quan luận, duy lý chủ nghĩa hay trực quan chủ nghĩa, đức trị chủ nghĩa hay công lợi chủ nghĩa... nhưng tất cả đều thống nhất trên quan điểm luân thường, cương thường. Về vũ trụ quan, thì Chu Hi là một nhà nhị nguyên luận. Hai yếu tố cấu thành vũ trụ là lý (quy luật) vũ khí (vật chất), biểu hiện trong con người thiên thành thiên lý và nhân dục. Nhưng thiên lý là gì? là tam cương ngũ thường. Cho nên, đúng như K. Marx nói, bản chất của tư tưởng phong kiến nói chung là đạo đức và danh dự mà bản chất của Nho học là luân lý, danh phận tức là tam cương, ngũ thường. 2. Vấn đề tính luận trong Nho giáo. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 8
  • 9. Tính luận là vấn đề trung tâm của Nho giáo. Đó là vấn đề tính người thiện hay ác thảo luận trên 2000 năm mà không có học giả nào tìm ra một giải pháp hoàn hảo. Chữ Nhân của Khổng Tử là một phạm trù rất mờ mịt tối tăm. Đến Mạnh Tử lại thêm chữ Nghĩa đặt ngang hàng đối với chữ Nhân, rồi lại thêm vào cặp Nhân, Nghĩa ấy chữ Lễ và chữ Trí mà còn gọi là Tứ đoan, tức là 4 cái mầm thiện trong con người... Như thế nội dung của chữ thiện trong Nho học là lễ nhân, nghĩa, lễ trí và thêm chữ tín của nhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường. Ngũ thường có liên quan mật thiết với ngũ tín của nhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường. Vậy ta có thêm bằng tam cương, ngũ luận, mà trọng tâm trong ngũ thường là tam cương, ngũ thường, là bản tính của con người, tức là nói tam cương, ngũ thường không phải riêng cho dân tộc nào, một giai đoạn lịch sử nào mà nó là phổ biến và hằng thường. Tính là do trời sinh. Trời sinh ra tính thiện, thì trời cũng là thiện, cũng là tam cương ngũ thường, cho nên tam cương ngũ thường là thường kinh (quy luật hằng thường) của trời đất, là thông nghị (định lý phổ biến) của cổ kim (Đổng Trọng Thư). Nhà Nho đã luân lý hoá vũ trụ và thượng đế như vậy, do đó phát sinh vấn đề gay go không thể giải quyết được. Làm sao mà chứng minh được bản chất của vũ trụ là cương thường. Vũ trụ nhân sinh đã là thiện thì ác ở đâu mà sinh ra, và làm sao giải thích được do lại của tội ác trong xã hội loài người. Tuy vậy các chi phí của Nho gia vẫn cố gắng giải quyết vấn đề ấy. Mạnh Tử chủ trương tính thiện, Tuân Tử thì chủ trương tính ác. Dương Hùng thì chủ trương thiện ác lẫn lộn. Hàn Dũ chủ trương tính chia 3 bậc(thượng, trung , hạ). Trong phái “tính lý” đời Tống thì Liêm Khê nói rằng “tâm chia làm thế dụng và động tĩnh; thể của tâm là vô tư, dụng của tâm là tư thông (tư tưởng thông suốt); tĩnh là chì chính, động là minh đạt (sáng suốt)... Động mà chưa có hình ở chỗ hữu vô, gọi là cơ. Cơ có thiện ác “minh đạt” có thật là động không? Dẫu tĩnh hay động đều là chí minh đạt cả, làm sao nó lại là cái cơ của cái ác được? Để thuyết minh thiện ác, Trương tác phân biệt hai thứ tính: thiện địa tinh và khí chất tinh, ác, tập quán xấu ảnh Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 9
  • 10. hưởng đến khí chất tính mà sinh ra. Nhưng tập quán xấu phát sinh từ trong xã hội. Nếu bản tính của loài người là thiện thì sao có tập quán xấu được. Từ Trương Tái trở đi, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi đều dùng nhị nguyên luận để thuyết minh thiện ác. Trình Hạo phân biệt Hính với khí bẩm: khí bẩm là cái động của tính. Vạn vật đều do khí bẩm cả nhưng phân lượng không giống nhau, có khi vừa phải có khi thái quá, có khí bất cập, thái quá và bất cập tức là cái ác. Trình Di thì cho rằng lý tức là tính, khi tức là tình. Tính là thiện nhưng khi nó phát ra hỉ, nộ, ai, lạc thì gọi là tình thì có khi thiện, thì có khi ác. Chi Hy cũng nối góc Y Xuyên mà cho rằng bản nhiên tính là thiên lý, mà tác dụng của tính là tình là khí. Thế nhưng họ đều không thuyết minh được vì sao mà tính động và vì sao khí động mà sinh ra khác nhau. 3. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống. Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn biết người chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! “Phải vụ lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta” (Luận ngữ) khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái “thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời mặc dù ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời, sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 10
  • 11. khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử. 4. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo. Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa. Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 11
  • 12. đường hay, việc đúng. Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” (Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâm thương). Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội. Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào ngũ thường. Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trìu tượng hoá. Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ “nhân nghĩa” một màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có “tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của người có nhân, nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người tương cảm với 4 đức của trời. Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số thời điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển càng ngày nó càng bị trừu tượng hoá trên quan điểm siêu hình. Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 12
  • 13. nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 13
  • 14. Phần II ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM I. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM. Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc. Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. ở cùng một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung quanh. Sự thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như thời nay. Những dân tộcc ở bất cứ đâu, bất cứ thời nào muốn sống, muốn nâng cao mức sống của mình không thể không học tập những dân tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng như vói khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá Trung Quốc là một điều tất yếu. Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 14
  • 15. hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo. Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử sách đã nêu rõ. II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM. 1.Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 15
  • 16. Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến. Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tam tới việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương Bắc. Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương... Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước. Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 16
  • 17. lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo. Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình. Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 17
  • 18. đó muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như các thế hệ nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong xã hội Việt Nam. 2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với nền văn xã hội Việt Nam: 2.1/ Tích cực : - Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. - Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. - Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 18
  • 19. - Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thôn, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. - Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. - Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. 2.2/ Tiêu cực : - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 19
  • 20. những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. 2.3/ Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam : Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. - Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua. - Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 20
  • 21. tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. - Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai. - Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. - Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo. 2.1/ Ảnh hưởng trong chế độ phong kiến: Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 21
  • 22. Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn. Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của nó. Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 22
  • 23. Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội. Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng. Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu. 2.2/ Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ngày nay của Việt Nam: Hồ chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và nhiều câu chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế của Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đa sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm : “lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc nước. Qua 2 cuộc kháng chiến người đã nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 23
  • 24. phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân đạo của con người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tư để nêu lên khí phách của người cách mạng : “ giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu nói của Mạnh Tử trong Thiên Đằng Văn Công – Ha : “ Phu quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và thống nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng mọi mặt của đất nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một tương lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại thường xuyên đụng đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều lúc nêu lại điều hay y tốt như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến lên, nhưng cũng có trường hợp nho giáo trở nên thọc gậy bánh xe. Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, Đảng ta chủ trương giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát huy sáng tạo, độc lập tư chủ, chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “là những điều cốt yếu của nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính đáng, cạnh tranh lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh doanh. Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn còn những quan điểm coi thường phụ nữ, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên bị phong tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy được hết năng lực của mình. Truyền thống quan hệ cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư tưởng của nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 24
  • 25. Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình, trong một dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của gia đình và dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha, những gia huấn được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông ba cha mẹ trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn mối quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người nảy sinh từ đó. Sự giáo dục của Nho giáo lấy lễ nghĩa làm biện pháp đã đạt được tới mức độ sâu sắc ở chổ nó thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Nho giáo đã huy động được dư luận toàn thể xã hội, biết quí trọng người có lể và khinh gét người vô lể và điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người. Vi phạm lể trở thành điều đau khổ, đáng sỉ nhục, thậm chí đến mức phải chết chứ không bỏ lễ. Ảnh hưởng của nho giáo trong lịch sử phát triển xa hội, truyền thống văn hóa của nưóc ta vẫn tiếp tục. Đây là một sự thật không phủ nhận được. Vấn đề "gạn đục khơi trong" Nho giáo để phục vụ mục đích tích cực cho đất nước ta hiện nay trong sự nghiệp công ngiệp hóa hiện đại hóa là vấn đề cần làm ngay và làm càng sớm càng tốt Tiêu cực : - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 25
  • 26. - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam. Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 26
  • 27. KẾT LUẬN Không ai chối cãi được rằng Khổng giáo hay Nho giáo đã tham gia một phần vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần dân tộc và vào sự thành văn hoá dân tộc, cho nên chúng ta cần thiết phải nghiên cứu Nho giáo để xem nó ảnh hưởng đối việc văn hoá nước ta như thế nào. Từ Nho giáo chuyển sang chủ nghĩa Mác qua một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và một biến chuyển về tư tưởng cơ bản, từ một hệ tư tưởng duy tâm lấy ý chí con người làm gốc sang chủ nghĩa duy vật với phương pháp khoa học, từ tưởng tôn ti trật tự gia trưởng sang dân chủ, từ dân tộc sang tư tưởng Mác xít phải đòi hỏi một quá trình dai dẳng. Tất nhiên rất nhiều điểm trong Nho giáo đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, thậm chí là phản động đang kèm hãm quá trình phát triển của dân tộc ta nhất là tại các khu nông thôn. Nhưng chúng ta không hề hổ thẹn khi nói rằng chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội là kế tục truyền thống nhà nho xưa, và nếu ghét cay ghét đắng chế độ phong kiến khi đã thối nát thì cũng không thể không trân trọng đến kẻ sĩ đời trước, và khi đánh giá lại, nếu học thuyết tư tưởng ngày nay chúng ta hơn hẳn thế hệ các sĩ phu thời trước, nhưng về nhân cách vẫn còn phải học nhiều phải chăng câu “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất của nhà Nho không còn giá trị hay sao? Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 27
  • 28. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luận ngữ - Thánh kinh của người Trung Hoa 2. Mạnh Tử 3. Nho học ở Việt Nam 4. Hồ Chí Minh toàn tập 5. Chống Đuyrinh - Enghen 6. Các nhân vật văn hoá vĩ đại Trung Quốc Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 28
  • 29. MỤC LỤC Lời mở đầu Phần I: Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo và một số nội dung tích cực của nó I/ Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo II/ Một số nội dung chính của Nho giáo 1. Tư tưởng Nho giáo là gì? 2. Vấn đề tính luận trong Nho giáo 3. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống 4. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo Phần II: Ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn hoá Việt Nam I/ Quá trình du nhập của Nho học vào Việt Nam II/ Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Việt Nam 1. Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến 2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối nền văn hóa - xã hội Việt Nam nói riêng và Tỉnh Trà Vinh Kết luận Tài liệu tham khảo Sinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 29