1. Một số dấu hiệu dễ bị bỏ sót trên X-quang ngực Bs Lê Hùng Giảng viên Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (nguồn Medscape)
2. X-quang phổi là một trong những phương tiện chẩn đoán hình ảnh được chỉ định nhiều nhất trong y khoa. Các bác sĩ điều trị thường là người đọc phim và cho chẩn đoán. Trong hầu hết các trường hợp, các sang thương được nhận định ngay chỉ sau khi nhìn thoáng qua phim X-quang. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ. Có những sang thương bị bỏ sót hay nhầm lẫn.
3. Nốt đơn độc thuỳ trên phổi trái Một nốt đơn độc ở thùy trên phổi trái tựa vào trung thất trên trái
4. Sarcoidosis Bệnh Sarcoidosis là một bệnh lý mô hạt đa cơ quan. Các cơ quan thường bị ảnh hưởng nhiều nhất là phổi, mắt và da. 60-70% các trường hợp có biểu hiện trên phổi. Hình ảnh trên X-quang phổi điển hình là phì đại hạch rốn phổi 2 bên đối xứng. Trong giai đoạn muộn, có hiện tượng co kéo, xơ hóa rốn phổi làm giảm thể tích phổi và có thể xuất hiện dấu hiệu tổ ong
5. Tăng áp động mạch phổi Tăng áp động mạch phổi là tình trạng áp lực động mạch phổi và trở kháng thành mạch tăng. Tăng áp động mạch phổi nguyên phát thường gặp ở phụ nữ trẻ và không rõ nguyên nhân. Nguyên nhân tăng áp động mạch phổi thứ phát có thể tiền mao mạch (thông trái-phải), mao mạch (bệnh viêm mạch tắc nghẽn) hay hậu mao mạch (bệnh phổi tắc nghẽn). Hình ảnh điển hình trên X-quang là động mạch phổi dãn với các nhánh bị vuốt nhọn (hình ảnh “tỉa cành”). Nếu chụp phim nghiêng, có thể thấy hình ảnh thất phải bị phì đại và khoang sau xương ức bị thu hẹp.
6. U Pancoast U Pancoastl là khối ú ác tính định vị ở trong rãnh trên của phổi. Về mặt giải phẫu bệnh, u chủ yếu là ung thư biểu mô không phải tế bào nhỏ, đặc biệt là biểu mô lát tầng. Đặc trưng của u là phá vỡ lá tạng màng phổi, xâm lấn thành ngực, đám rối cánh tay và nhóm hạch giao cảm cổ trên (gây hội chứng Horner). Hình ảnh X-quang điển hình: mờ một đỉnh phổi hay hai đỉnh phổi mất đối xứng, phá hủy xương sườn (thường là xương sườn 1). Nếu chụp đỉnh ưỡn, hình ảnh u sẽ được nhận định rõ hơn
7. Bệnh phổi a-mi-ăng (asbestosis) Bệnh phổi a-mi-ăng là bệnh lý nghề nghiệp, gây ra do hít phải bụi hay sợi a-mi-ăng. Tổn thương điển hình là những mảng dày vôi hóa của màng phổi , đặc biệt ở màng phổi hoành và màng phổi trung thất (mủi tên trắng). Mảng dày màng phổi không vôi hóa có thể được phát hiện trên CT. Tổn thương phổi biểu hiện bằng hiện tương xơ hóa mô kẽ lan tỏa, xẹp phổi dạng tròn, tràn dịch màng phổi.
8. Dày màng phổi một bên Dày màng phổi một bên là dấu hiệu X-quang cổ điển của u trung mô ác tính. Màng phổi dày có thể dạng mảng hay nốt. Các khe phổi thường bị dày lên và biến dạng. Nếu có tràn dịch màng phổi, các dấu hiệu trên có thể bị che lấp. Mảng dày màng phổi vô hóa là bằng chứng của bệnh nhiễm a-mi-ăng trước đó. Bệnh a-mi-ăng là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của u trung mô sau này. Ngoài Asbestosis, màng dày màng phổi một bên còn có thể gặp trong một số trường hợp sau: mũ màng phổi, chấn thương, sẹo phẫu thuật, di căn…
9. Bệnh phổi do Aspergillus Bệnh phổi do Aspergillus (Aspergillosis) gây ra bởi chủng nấm Aspergillus, trong đó phổ biến nhất là Aspergillus fumigatus. Có 4 thể Aspergilosis: phế quản phổi dị ứng (allergic bronchopulmonary) , u (Aspergilloma), hoại tử mãn (chronic necrotizing ) và xâm lấn mạch (angioinvasive). Thể u biểu hiện bằng hình ảnh một khối tròn có viền hơi hình liềm nằm bên cạnh. Khối u nấm có thể di chuyển tự do khi bệnh nhân thay đổi tư thế. Thể phế quản phổi dị ứng thể hiện bằng hình ảnh thâm nhiễm thùy, hình “găng tay” quanh rốn phổi (do dịch nhầy lấp đầy các nhánh phế quản dãn lớn), hình “đường ray” (do thành phế quản phù nề). Thể hoại tử mãn thể hiện bằng hình ảnh đông đặc thùy phổi sau đó diển tiến đến hoại tử tạo hốc. Thể xâm lấn mao mạch thể hiện bằng các mảng đông đặc rãi rác với các nốt và sang thương hình chêm ở ngoại biên do nhồi máu xuất huyết.
10. Nốt đơn độc phổi Nốt đơn độc phổi được định nghĩa là một hình mờ bao quanh bởi nhu mô phổi, không kết hợp với bệnh lý hạch rốn phổi và xẹp phổi. Nguyên nhân nốt đơn độc có thể là u lành hay ác, nhiễm trùng, u hạt không nhiễm trùng, sang thương mạch máu, sang thương bẩm sinh, và các bệnh lý hệ thống khác. Các yếu tố cần cân nhắc đến khi đánh giá một nốt phổi đơn độc: kích thước, vị trí, đường bờ, tạo hốc, vôi hóa và tốc độ phát triển. Nốt đơn độc ác tính có những tính chất sau: kích thước khá lớn, ở đỉnh phổi, đường bờ không đều, phát triển kích thước theo thời gian. Nốt đơn độc có thể bị che lấp bởi xương sườn hay xương đòn. Nốt đơn độc ở hình bên là của một bệnh nhân bị bất toàn động-tĩnh mạch phổi
11. Hẹp khíquản Khí quản bị hẹp có thể do u bướu, chấn thương, thủ thuật, viêm nhiễm hay các khối u từ ngoài chèn vào. Hình trên cho thấy một bướu giáp thòng trung thất đẩy khí quản sang phải và làm hẹp lòng khí quản
12. Sang thương phổi có tạo hốc Sang thương tạo hốc ở phổi có thể là biểu hiện của ung thư nguyên phát hay thứ phát, áp-xe, lao , bệnh mô hạt Weneger. Các yếu tố đánh giá bao gồm: kích thước, vị trí, thành, mức nước hơi. Áp-xe phổi thường có thành dày và mức nước hơi. Các khối u hoại tử tạo hốc thường có thành dày nhưng không đều và không có mức nước hơi. Hình bên là một sang thương tạo hốc ở đỉnh phổi phải, có thành mỏng và không có mức nước-hơi của một bệnh nhân bị lao phổi
13. U sợi xơ phổi Ung thư trung mô (maglinant mesothelioma) và u sợi xơ phổi là hai sang thương tân sinh của màng phổi. Khác với ung thư trung mô, u sợi xơ phổi là sang thương lành tính và không có liên quan đến nhiễm a-mi-ăng. Hình ảnh của u sợi xơ: hình mờ đồng nhất, giới hạn rõ nằm ở màng phổi. Khối u có thể nằm ở bất cứ vị rí nào của màng phổi. Khối u lớn có thể bị nhầm lẫn với đông đặc thùy phổi.