Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành củng cố và khôi phục các đường liên hệ thần kinh tạm thời. Đó là sự để lại dấu vết trong tế bào vỏ não khi cơ thể nhận được kích thích.
Bộ não là cơ quan quan trọng và phức tạp nhất trong cơ thể con người. Khối lượng trung bình của não ở người trưởng thành là 1,3 kg - 2,4 kg.
Não được cấu thành từ hơn 100 tỷ tế bào thần kinh (neuron) và chúng giao tiếp với nhau bởi hàng nghìn tỷ kết nối được gọi là các khớp thần kinh.
Tế bào thần kinh gồm: thân tế bào, một sợi trục và nhiều sợi nhánh, có chức năng gửi và nhận tín hiệu đến rồi đi khỏi não.
Các nhà khoa học gọi mạng lưới đâm nhánh chằng chịt của các tế bào não là "rừng tế bào thần kinh". Các tín hiệu di chuyển qua “rừng thần kinh” tạo nên cơ sở của trí nhớ, tư duy và cảm xúc.
Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và sự diễn biến của các quá trình lí hóa trong vỏ não và dưới vỏ.
2. I. HOẠT ĐỘNG CỦA NƠ RON THẦN KINH
2
- Gồm: thân bào và các rễ.
- Thân bào gồm: màng, tế bào chất và nhân.
• Chứa 1 nhân
• Trong bào tương có nhiều thể Nissl.
• thể Nissl là 1 chồng các túi lưới nội bào hạt xếp song
song.
- Rễ Neuron phân thành 2 loại:
• Sợi trục (sợi vận động ly tâm)
• Sợi nhánh (sợi cảm giác, hướng tâm)
- Tế bào thần kinh khác với các tế bào khác ở 2 điểm:
• Thân của TBTK nối dài theo những hướng khác nhau và
hoạt động như đường cáp và thông qua đó tín hiệu được
truyền đi và được phản hồi trở lại.
• Có lớp vỏ bọc có thể truyền dẫn tín hiệu qua hệ thần
kinh.
1. Sự dẫn truyền
1.1. Đặc điểm cấu tạo của neuron
3. 1.2. Sự dẫn truyền của các neuron
3
Quá trình truyền dẫn trong não bộ giống như sự nối kết trong máy tính, ở đó một
tb kết nối với các tb khác giống như hệ thống cáp mạng của lưới dây tk. Thân tbtk
nối với các tb khác thông qua các sợi chằng chịt. Thông tin được truyền dẫn trong
hoóc môn được gọi là các chất truyền dẫn chứa trong thân tb.
Ở mỗi người, các nhánh truyền dẫn hay hệ thống TK là công cụ của tư duy.
Tiếng ồn, mức độ ô nhiễm, thiếu ánh sáng và không khí đều tác động tiêu cực đến
sự phát triển của các TBTK. Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin là hai năng lực
chịu tác động của môi trường.
5. 1.2. Sự dẫn truyền của các neuron
5
Dancey
&
Lennon
đã đưa ra
so sánh
hai năng
lực này ở
hai nhóm
trẻ:
Trẻ thiệt thòi Trẻ sáng tạo
Năng lực
tiếp nhận
thông tin
- Thất bại trong tham dự môi
trường một cách lựa chọn.
- Có cấu trúc nhận thức ít hơn.
- Có khó khăn trong suy trì sự chú
ý.
- Quá kích động trong phản ứng
với kích thích.
- Chấp nhận sự không xác định và
không nhất quán.
- Năng lực phán xét được kích thích
theo nhiều cách.
- Khả năng hiểu biết rộng.
- Ham hiểu biết
Năng lực
xử lý thông
tin
- Có hạn chế trong hình dung trật
tự hành động.
- Hạn chế về năng lực giải quyết
vấn đề và lập kế hoạch.
- Tự phát và thất bại, phản ứng
không phù hợp.
- Phản ứng cứng nhắc với tình
huống vấn đề.
- Hứng thú với xung đột quan niệm.
- Năng lực chấp nhận thông tin
không nhất quán cao.
- Tìm kiếm quan niệm dung hòa để
giải thích những kết quả quan sát.
- Nhạy cảm với tính không nhất
quán về thông tin.
6. 2. CƠ SỞ TẾ BÀO CỦA
TRÍ NHỚ
6
• Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành củng cố và khôi phục các đường liên hệ thần kinh tạm
thời. Đó là sự để lại dấu vết trong tế bào vỏ não khi cơ thể nhận được kích thích.
• Bộ não là cơ quan quan trọng và phức tạp nhất trong cơ thể con người. Khối lượng trung bình
của não ở người trưởng thành là 1,3 kg - 2,4 kg.
• Não được cấu thành từ hơn 100 tỷ tế bào thần kinh (neuron) và chúng giao tiếp với nhau bởi
hàng nghìn tỷ kết nối được gọi là các khớp thần kinh.
• Tế bào thần kinh gồm: thân tế bào, một sợi trục và nhiều sợi nhánh, có chức năng gửi và nhận
tín hiệu đến rồi đi khỏi não.
• Các nhà khoa học gọi mạng lưới đâm nhánh chằng chịt của các tế bào não là "rừng tế bào thần
kinh". Các tín hiệu di chuyển qua “rừng thần kinh” tạo nên cơ sở của trí nhớ, tư duy và cảm
xúc.
• Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm
thời và sự diễn biến của các quá trình lí hóa trong vỏ não và dưới vỏ.
7. 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC TẾ BÀO DẪN TRUYỀN, HỌC TẬP
VÀ CÁC CHỈ BÁO NHẬN THỨC KHÁC
- Sáng tạo có quan hệ với học tập và giáo dục
- De Weid(1995): ACTH (hoocmon dẫn truyền thần kinh được tuyến yên tiết ra khi có kích thích) có thể
kích thích quá trình học tập. ACTH tạo thuận lợi cho sự thay đổi tích cực trong động cơ, chú ý, sự tập
trung, kích động và cảnh giác.
=> các yếu tố này đều quan trọng với học tập và sáng tạo.
- Spencer (1996): tự do ý chí đươc coi là niềm tin hơn là hành động tự nguyện.
=> ý chí có ý thức có thể hoạt động như một sự kiểm tra có ý thức về những lựa chọn sau khi
chúng được tiến hành trong vô thức.
- Nghiên cứu chi ra rằng: ACTH chỉ đóng vai trò như chất xúc tác cho các liên thông trong các tế bào thần
kinh, bao gồm cả hai hệ bán cầu đại não. Lý thuyết sinh học thần kinh cũng chỉ giải thích được một phần
quá trình sáng tạo, chứ không thể cung cấp câu trả lời xác định như điểm khởi đầu mà từ đó các nhà
nghien cứu có thể phát hiện vai trò của sinh tế bào thần kinh trong qua trình sáng tạo.
9. 1. SỰ ƯU TRỘI CỦA BÁN CẦU ĐẠI NÃO VÀ CHỨNG CỨ VỀ NÓ
10. 1. SỰ ƯU TRỘI CỦA BÁN CẦU ĐẠI NÃO VÀ CHỨNG CỨ VỀ NÓ
• Đứa trẻ sinh ra do sự
chuyển động không
xác định thì chúng sẽ
phát triển dần thành
thuận một tay,thuận
một chân…do vậy hầu
hết mọi người đều
thuận một bên. Nửa
bán cầu đại não sẽ có
vai trò nổi trội hơn
hơn ở bên phía đối
diện.
11. Có nhiều chứng cớ và tranh
luận cho rằng bán cầu đại não
phải chịu trách nhiệm về tư
duy sáng tạo,sự suy đoán này
đã dẫn đến quan niệm phân
đôi tất cả các chức năng và
đưa các chức năng vào một
trong hai bán cầu đại não:
12. Chứng cứ nghiên cứu về sự ưu trội của bán cầu đại não:
Những người thuận tay trái có sự ưu trội của não phải và nếu đúng như trên thì
những người thuận tay trái sẽ sáng tạo hơn. Nhiều người tài năng như Leonardo de
Vinci, Benjamin Frankrin và Michelangelo thuận tay trái.
• Gabrielli và Mednick (1980), người thuận tay trái có tỷ lệ đại diện tội phạm nhiều hơn.
Người thuận tay trái dược coi là:
• sáng tạo hơn
• tính cách nhạt nhẽo và trong ngôn ngữ được coi là thiếu tế nhị
• sự vụng về, lờ mờ, không minh bạch.
• có cảm xúc bốc đồng và ít phân tích kỹ lưỡng.
Nguyên nhân do: di truyền , thứ hai là do tổn thương ở bán cầu não trái trong khi sinh => trẻ
dựa chủ yếu vào não phải và sử dụng các hoạt động liên bán cầu não cho ngôn ngữ cũng như
cho các chức năng khác.
• Nghiên cứu trẻ sinh đôi cung cấp thông tin rằng chỉ có khoảng 10% người thuận tay trái,
nhưng số người thuận tay trái trong số trẻ sinh đôi là 25%. Một phần trong số này có tổn
thương não.
13. Chứng cứ nghiên cứu về sự ưu trội của bán cầu đại não:
• Về mặt trí tuệ, có cơ sở để nói rằng người thuận tay trái có một số thiệt thòi. Levy giả định rằng
điều đó xảy ra là do năng lực ngôn ngữ và trực quan không cạnh tranh các tế bào thần kinh và
chức năng ngôn ngữ thường thắng thế và ông cũng dự báo rằng nếu dùng trắc nghiệm IQ về ngôn
ngữ, người thuận tay trái sẽ không nghi điểm thấp hơn người thuận tay phải, nhưng nếu dùng trắc
nghiệm thực hành, người dùng tay trái có điểm thấp hơn ( kiểm tra bằng trắc nghiệm Trí tuệ người
lớn Wechsler và giả định này đã được chứng minh => người thuận tay trái có ít năng lực hơn
người thuận tay phải ở những kỹ năng như xác định mối quan hệ giữa đồ vật và cách thức nhận
biết, ở đó não phải thực hiện tốt công việc, nhưng người thuận tay trái không có khiếm khuyết khi
thực hiện chức năng ngôn ngữ. Luyện tập tạo ra sự đền bù trong trao đổi thông tin giữa hai bán
cầu.
• Dacey (1989) nghiên cứu quan hệ thuận tay trái và sáng tạo: Dù khoảng 10% số người thuận tay
trái nhưng ông phát hiện ra rằng có tới 20% số người sáng tạo nhất là những người thuận tay trái (
trong số 125 người được nghiên cứu) => chưa khẳng định dứt khoát, nhưng con số này đã cho
chúng ta một chứng cứ gì đó để nói rằng người thuận tay trái có khả năng sáng tạo cao hơn so với
người thuận tay phải.
14. 3. BÁN CẦU NÃO VÀ SỰ
KHÁC BIỆT GIỚI
Hellige (1993) chỉ ra rằng có nhiều phụ nữ thuận tay trái nhiều
hơn nam.
Reite và cộng sự :
testosterone ở nam giới có tác động tăng tiềm năng sáng
tạo ở họ so với nữ giới.
Eo nối corpus callosum, nơi 2 bán cầu đại não nối với
nhau ở nữ giới lớn hơn thì tiềm năng sang tạo của phụ nữ
sẽ cao hơn nam giới.
Nữ giới có ưu thế về ngôn ngữ và nam giới có ưu thế về
trực quan không gian. Các tác giải cũng nhấn mạnh về
hoạt động ngôn ngữ và không gian cho thấy có mối lên hệ
của các chức năng này với vị trí của tế bào thần kinh ở
bán cầu não phải ở cả 2 giới.
15. 3. BÁN CẦU NÃO VÀ SỰ
KHÁC BIỆT GIỚI
Casey, Nuttall và Pezaris (1977) đã:
Giải thích sự ưu trội của nam giới
ở Trắc nghiệm khả năng toán học.
Đã xác định mối quan hệ về toán
và kiến thức hình học (các biến
Tâm lý học) và nỗi lo sợ môn toán
(tính chất xã hội), giữa giới tính và
kỹ năng không gian (phẩm chất
bẫm sinh).
16. 3. BÁN CẦU NÃO VÀ SỰ
KHÁC BIỆT GIỚI
Voyer (1994):
Phân biệt hai loại ưu trội bán cầu đại não (chuẩn mực và phi chuẩn mực) có tác động
tới thuận tay và tìm nguyên nhân của sự có mặt hay vắng mặt của testosterone trong tử
cung. Định nghĩa “sự ưu trội chuẩn mực” như sự ưu của bán cầu não trái đối vơi ngôn
ngữ và sự thuận một tay với sự trội của bán cầu não phải đối với ngôn ngữ và các
chức năng khác nhau. Định nghĩa “ sự ưu trội phi chuẩn mực” như bất cứ sự lệch khỏi
hình thức chuẩn mực nào đó.
Người thuận tay trái và những người có người thân thuận tay trái được coi là ưu trội
phi chuẩn mực hơn những người khác.
Ông thừa nhận nếu ưu trội phi chuẩn mực có nguyên nhân testosterone ở bào thai và
nếu đàn ông thường có nhiều hooc môn này hơn nữ,thì ưu trội phi chuẩn mực có chiều
hướng xuất hiện ở nam giới.
17. 4. SỰ PHỐI HỢP HAI BÁN CẦU ĐẠI NÃO
- Theo nhà nghiên cứu của Tâm Lý học người Nga Luria A.R (1973): “ Kích thích
dòng điện yếu có thể tạo ra phản ứng mạnh”. Điều đó có thể xảy ra ở 1 số người
do khả năng trao đổi giữa các bộ phận của não bộ nhờ kết quả của diện tích nhỏ
được tích trữ (Arieti, 1976)
- Arieti (1976): “ở người sáng tạo, một kích thích yếu , chỉ 1 thuộc tính của đồ vật,
có thể trở thành mạnh mẽ khi được sử dụng như 1 ẩn dụ.
- Bộ não hoạt động thống nhất. Mức độ nào đó đều tham gia vào hầu hết các hoạt
động và hành vi:
• 2 bán cầu, bộ phận kết nối (corpus callosum) , các thùy và cấu trúc dưới vỏ
não hệ thống xử lý thông tin thống nhất, chuyển tải hang loạt thông tin
từ bán cầu não này sang bán cầu não kia
18. 4. SỰ PHỐI HỢP HAI BÁN CẦU ĐẠI NÃO
- Herman (1981) đưa ra bản mô tả mối quan hệ xác xuất
giữa sự thuận một tay và hoạt động của cả não bộ, khi
xuất hiện vấn đề sáng tạo: “ Nếu ta nghĩ quá trình sáng
tạo bao gồm sự hứng thú, chuẩn bị, ấp ủ,bột thức, kiểm
tra và khai thác quá trình này dã có giai đoạn chuẩn
bị não trái, não phải và cả hai bán cầu đại não.
- Payne và Evans (1985) phát hiện ra mối quan hệ có ý
nghĩa giữa HNDI não phải với tổng số điểm cũng như
SAT toán và ngôn ngữ.
Tầm quan trọng của cả não bộ trong hình thành năng
lực.
19. 4. SỰ PHỐI HỢP HAI BÁN CẦU ĐẠI NÃO
• Nghiên cứu sự tập trung mắt sang một bên, Falone và Loder (1984) phát hiện ra rằng
khách thể đạt được điểm cao trong trắc nghiệm Guiford có chiều hướng nhìn chằm
chằm vào chiều hướng bên trái thường xuyên hơn trong thời gian dài trong lúc làm trắc
nghiệm hơn những người có điểm thấp.
• Sự định vị trên từng bán cầu não có thể trực tiếp so sánh não đồ khi tư duy sáng tạo.
• Katz (1983): tiến hành thực nghiệm để xem hoạt động của bán cầu não nào tích cực
hơn.
• Katz đã phát hiện ra rằng : “ chỉ cần biết điểm số theo bài tập thực hiện của bán cầu
đại não, có thể chuẩn đoán đúng tới 75% rằng liệu nghiệm thể có thể xép được vào
nhóm sáng tạo cao hay sáng tạo thấp .”
20. 4. SỰ PHỐI HỢP HAI BÁN CẦU ĐẠI NÃO
• Finke (1990): Tư duy sáng tạo không thể chỉ định vị ở bán cầu não phải, bởi vì bán
cầu não trái đóng vai trò quan trọng hơn trong việc tạo ra và kết nối tâm lý
• Nghiên cứu của Zamb (1970) : “Trong giai đoạn ấp của quá trình sáng tạo, có rất ít
sự trao đổi của 2 bán cầu.”
KẾT LUẬN: Mỗi bán cầu não có một vai trò và chức năng hoàn toàn khác nhau
nhưng chúng không phủ định nhau, không tách xa nhau mà là một thể thống nhất. Việc
kết hợp não phải và não trái trong hoạt động học tập giúp giảm tải căng thẳng cho não
trái và khai thác tối đa hiệu quả của não phải đem lại hiệu quả cao nhất trong học tập
nói riêng và các hoạt động khác nói chung. Qua đó có thể thấy, sống thiên về một bên
não nào quá, sẽ không tốt cho công việc hoặc cuộc sống của mình. Thiên về não trái
quá thì trở nên lúc nào cũng nói logic, khô khan, kém uyển chuyển. Còn nếu thiên về
não phải quá thì lại lúc nào cũng mơ mộng, giàu cảm xúc quá thì lại xa rời thực tế, làm
việc chỉ nói cảm xúc, thiếu lý trí để phán đoán.
21. Katz (1997) đã xem xét các chứng cứ thực chứng đối với mối liên kết giữa bán
cầu đại não và sáng tạo, đề cập đến việc đo đạc tính chuyên biệt của bán cầu đại
não và đo đạc sáng tạo. Từ đó, ông rút ra 3 kết luận về quan niệm về sáng tạo:
• Đo kết quả hay sản phẩm của những người được đo là sáng tạo
• Đo kết quả được xác định qua công cụ trắc đạc tâm lý đc xây dựng để đo
các thành tố sáng tạo
• Sử dụng các chức năng nhận thức liên quan đến sáng tạo ( ví dụ: tưởng
tượng) hay cam kết trong các hoạt động sáng tạo( ví dụ: nghệ thuật, âm
nhạc, hội họa,,,)
5. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CỦA NÃO BỘ VÀ SÁNG TẠO
22. Những quan niệm này được sử dụng trong nghiên cứu 3 lĩnh vực:
• Đo trực tiếp hoạt động của não ở những người bình thường hay ở những người có
tổn thương não bộ.
• Đo gián tiếp hoạt động của não bộ, như kết quả thực hiện trong các trắc nghiệm
tương ứng
• Nghiên cứu những thay đổi trong sáng tạo liên quan đến quan hệ của hai bán cầu
đại não theo những cách khác nhau.
Từ những nghiên cứu đó , đã cho thấy cái nhìn sâu sắc hơn và cho phép đưa ra những kết
luận của KATZ được xếp thành 3 loại:
• Kết quả sáng tạo cao khi sử dụng cả 2 bán cầu đại não
• Các kỹ năng nhận thức khác nhau cần thiết ở những hoạt động sáng tạo khác
nhau.
• Những kỹ năng này có thể lôi kéo 2 bãn cầu đại não theo những cách khác nhau
5. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CỦA NÃO BỘ VÀ SÁNG TẠO