ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
Mặt trời trong ly nước.
1. Hợp hạch lạnh trong… bể cá!
Hơn 10 năm trở lại đây, giới khoa học đã bớt tranh luận về
sự tồn tại phản ứng hạt nhân năng lượng thấp hay hợp hạch
lạnh và việc sản xuất nhiệt năng trong các hệ thống mà ở
đó, nhiệt lượng sinh ra lớn hơn điện năng hay cơ năng đưa
vào hệ đó (máy nhiệt vượt hiệu suất).
Các hiện tượng này được môt tả bởi N. Sluginov trong cuốn
“Lý thuyết điện phân”, xuất bản năm 1881. Một trăm năm
sau Fleishman và Poins đã lặp lại những thí nghiệm đó với
công nghệ tân tiến hơn. Năm 1989, khi kiểm tra bình điện
phân dung dịch nước nặng với các điện cực Paladi, họ đã
nhận thấy rằng nhiệt lượng sinh ra lớn hơn điện năng cung
cấp cho bình điện phân cùng với sự có mặt của dòng neutron
yếu. Cuối cùng họ đã xác nhận rằng trong trường hợp này đã
xảy ra phản ứng hợp hạch lạnh. Poins và Fleishman cho
rằng, đã xảy ra phản ứng kết hợp nguyên tử Deuteri tạo ra
nguyên tử Heli cùng với phát xạ neutron, giống như quá
trình xảy ra ở Mặt trời với nhiệt độ lên tới hàng triệu độ.
Ba tháng sau đó, dưới sức ép của c ác “fire worshipper”, Hợp hạch lạnh đã bị “che giấu”.
Fleishman và Poins bị ép buộc phải phủ nhận các kết quả nghiên cứu và bị sa thải. Các tạp
chí khoa học đều khăng khăng rằng, hiệu ứng của Fleishman và Poins không tồn tại.
Tuy nhiên sự thật thì vẫn là sự thật và muốn lật ngược nó lại thật không dễ chút nào. Ý
tưởng này đã được triển khai. Những người nhiệt huyết ở phương Tây đã thành lập tạp chí
“Cold Fusion” và sau đó là phụ chương “Infinite Energy”, ở khu vực Dagomish, Shochi cũng
đã có hội thảo thường niên về “Sự chuyển vị hạt nhân các nguyên tố hóa học”, trong đó mỗi
tháng 10 các thành viên “Hội hợp hạch lạnh” ở khắp thế giới lại tổ chức gặp mặt.
Tờ tạp chí đã không có đủ số trang dù chỉ để liệt kê các nghiên cứu thú vị về vấn đề Hợp
hạch lạnh. Đã có rất nhiều nghiên cứu về hợp hạch lạnh khi điện phân được thực hiện.
Trong số đó có một thí nghiệm có thể thực hiện không chỉ trong phòng thí nghiệm Vật lý
của các trường đại học mà ngay cả trong phòng bếp! Các nghiên cứu này được thực hiện bởi
2 sinh viên Matxcova là Klikov và Shavruk tại MePhi (Học viện Vật lý hạt nhân Matxcova)
dưới sự hướng dẫn của kỹ sư Grishin. Chỉ nửa năm sau nghiên cứu đã được chọn đi dự triển
lãm Khoa học kỹ thuật trẻ quốc tế, tổ chức tại Grenoble (Pháp) mùa hè năm 2001. Chỉ có
mình Klikov mang theo thiết bị do mình tự chế tạo đến triển lãm, và sau đó, anh trở về
Matxcova với tấm bằng và một mớ danh thiếp của các nhà khoa học nước ngoài (xem
http://wvw.mephi.ru/Engeneer-Physisist/Numberl 2-13-2004/Article6-3.html)
Thiết bị của Klikov không có gì phức tạp, và đã được Ilin, phóng viên báo “Kỹ sư trẻ”, trình
bày trong bài viết “Mặt trời trong ly nước.”
Thiết bị chỉ là một bình điện phân thông thường. Nó gồm một bình dung dịch, trong đó đặt
một catod làm bằng theo không gỉ. Catod được hàn nối với dây dẫn, mắc vào một đầu ra
của bộ chỉnh lưu. Anod là một thanh Vonfram (theo Grishin, hiệu ứng thu được ở vonfram sẽ
lớn hơn so với Paladi). Thanh Vonfram được gắn vào nắp bình điện phân và nối với đầu còn
2. lại của chỉnh lưu. Nguồn điện là một variac với cầu diode 10A. Dung dịch điện phân được sử
dụng là dung dịch muối ăn trong nước cất thông thường.
Hiệu ứng nhiệt của phản ứng được xác định thông qua đo sự thay đổi nhiệt độ của dung dịch
điện phân, có tính đến nhiệt lượng đã thất thoát. Điện năng cung cấp được xác định bởi
công tơ điện. Cũng có thể sử dụng Vôn kế và Ampe kế.
Để đưa phản ứng xảy ra, cần phải nâng điện áp từ từ bằng cách xoay núm vặn của Variac.
Đầu tiên, chúng ta sẽ thấy bọt khí sinh ra ở anod. Đó là giai đoàn tạo ra khí Hidro. Khi điện
áp lên tới 30V sẽ xuất lớp sáng màu cam quanh anode. Đây là thời điểm bắt đầu hồ quang
điện. Màu sắc của hồ quang thể hiện là phổ của muối Natri. Tiếp tục tăng điện áp, màu sắc
của hồ quang chuyển dần sang tím. Theo tác giả, nhiệt độ của hồ quang lúc này lên tới
12000 oC. Nếu tăng điện áp lên một chút nữa, dung dịch điện phân sẽ trở thành màu trắng
đục. Đây là thời điểm sinh nhiệt nhiều nhất.
Thực hiện thí nghiệm này trong phích nước với một số dụng cụ đo đơn giản, Grishin đã đo
được hiệu suất phản ứng. Cứ mỗi kWh điện thì ông thu được 1,3±0,15 kWh nhiệt tương
ứng. Như vậy, phần năng lượng dư không dưới 15% hay nói cách khác, hiệu suất của quá
trình là 1,15-1,45.
Có vẻ như chúng ta đã xác nhận được khẳng Fleishman và Poins về phản ứng là đúng. Tuy
nhiên những người thực hiện thí nghiệm này đã không tìm thấy bức xạ ion hóa, là đặc trưng
của hầu hết các phản ứng hạt nhân. Nhưng tại sao lại có năng lượng dư thừa được sinh ra ở
đây?
Bởi vì Vladimir Gennadievich là nhà hóa học và cũng là nhà Vật lý Plasma, nên đầu tiên ông
giả thiết rằng, trong vùng hồ quang không chỉ xảy ra quá trình điện phân nước thông
thường (thành Hidro và Oxi) mà còn cả quá trình “polimer hóa” phân tử nước thành phân tử
tập hợp dưới dạng cụm phân tử nước (cluster). Như đã biết, quá trình liên kết các phân tử
trong cụm phân tử bắt buộc phải phát ra năng lượng liên kết, hay nhiệt năng.
Khác với giả thiết của các nhà hóa học cổ điển là các cụm phân tử nước có công thức đơn
giản là (H2O)n Grishin cho rằng, trong trường hợp này số nguyên tử Hidro nhỏ hơn 2n. Thật
vậy, theo các nghiên cứu của một số nhà khoa học Liên xô (1985-1990), các phân tử nước
có thể chuyển hóa thành H10O8 và giải phóng năng lượng. Theo Gennadievich, công thức
chính xác là (H2O)2(OH)6.
Trong tất cả các trường hợp khi hợp nhất các phân tử nước thành những cluster tương tự
như vậy sẽ sinh ra Hidro tự do, và trong báo cáo của Grishin cũng ghi nhận rằng thiết bị của
họ không chỉ sinh ra nhiệt mà còn cả Hidro.
Grishin và học trò của mình cũng không bỏ qua phản ứng hạt nhân. Nhưng có điều không
giống như những gì đã biết trước đây, những gì mà Fleishman và Pons mong đợi trong
nghiên cứu của mình mà hoàn toàn khác, chưa từng được các nhà Vật lý biết đến. Từ hóa
học ta biết rằng Khi chúng ta điện phân nước thông thường xảy ra quá trình tạo thành
nguyên tử Hidro nhờ vào sự tiếp nhận điện tử của proton (H+). Tuy nhiên trong nước luôn
chứa 0.015% nước nặng. Như vậy sẽ xảy ra quá trình tiếp nhận điện tử của ion Deuteri.
Trong trường hợp này, không những xảy ra quá trình hình thành nguyên tử Deuteri mà còn
có thể tạo thành một hạt đặc biết là “dineutron”(gồm 2 nơ tron). Cuối cùng, electron không
bị “bắt”bởi vỏ nguyên tử, mà trực tiếp bởi hạt nhân nguyên tử (tương tự như sự ghép cặp
3. K). Dineutron có thời gian sống rất ngắn, tuy nhiên nó trung hòa về điện, và như thế sẽ
không có tương tác Cu lông, dineutron sẽ “rơi” vào mạng tinh thể Vonfram và có thể xuyên
trực tiếp vào hạt nhân nguyên tử. Như vậy hạt nhân đã nhận thêm 2 neutron tạo thành
đồng vị Vonfram-184.
Như vậy nhiệt lượng sinh tra trong bình điện phân được giải thích bằng hai quá trình : “đốt
cháy” nước và tạo thành đồng vị Vonfram-184. Vì đây đều là những quá trình đặc biệt nên
cần phải kiểm tra, liệu trong không gian lân cận có những tia bức xạ hay là những hiện
tượng vật lý khác có tác động sinh học hay không. Để kiểm tra những tác động này có thể
sử dụng ruồi giấm để xem xét dấu hiệu đột biến và đối chiếu với dấu hiệu trong các sách di
truyền học.
Vấn đề quan tâm đặc biệt ở đây là hiệu suất biến đổi năng lượng của quá trình. Đây là công
việc thú vị dành cho các nhà nghiên cứu có tính cẩn thận, tỉ mỉ. Hiệu suất của quá trình có
thể phụ thuộc vào mật độ dòng điện, nồng độ và thành phần dung dịch. Nhiềuthínghiệmđơn
giảnthành công đã cho thấy nănglượngdư thừa tối thiểulà15%. Điềunày cho phépta ứng dụngvào
các hệ thốngtạo nhiệttừ điệnđể tiếtkiệmnănglượngchẳng hạnnhư sưởi ấm nhà cửa (Ở Nga được
dùngtương đối nhiều).
Sử dụnghiệuứngnày trong các nhàmáy nhiệtđiệncóthể tăng hiệusuấthệ thốnglên1-2%. Tuy đây là
con số rất nhỏ nhưngkhi ứng dụngvào quymô của các nhà máyphát điệnthì chắc chắn sẽ đemlại
khoảnlợi nhuậnkếchxù. Trongcông nghiệpnhiệtnhômhiệuứngnàycũng sẽ cho phépgiảmđiệnnăng
tiêuthụcủa quátrình. Và tất nhiênlàcòn rất rất nhiềulĩnhvựccho phép ứng dụnghiệuứngtuyệtvời
này nữa.